NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

                                                                                    
      Ngày 07.11.2006,Việt Nam ký Bộ hồ sơ gia nhập Hiệp định Marrakesh về thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có bài viết quan trọng: "Gia nhập WTO: Cơ hội, thách thức và hành động của chúng ta" đăng trên báo Nhân dân và các báo khác trong nước[2]. Ngày 15.11.2006, trên các trang báo điện tử của Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và một số cơ quan khác đã đăng toàn văn cam kết của Việt Nam với WTO [3]. Ngày 29.11.2006, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 71/2006/QH11 phê chuẩn Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập WTO. Ngày 11.01.2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO [4].
        Tài liệu này được chuẩn bị để phục vụ việc nghiên cứu các vấn đề về WTO và những tác động của gia nhập WTO đối với Việt Nam.
Tài liệu này gồm 04 phần: Phần I trình bày tổng quan về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO; Phần II trình bày những vấn đề cơ bản về WTO và kết quả đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam; Phần III trình bày những luật lệ cơ bản của WTO cần chú ý khi giải quyết các vụ việc thương mại quốc tế; Phần IV trình bày cơ hội, thách thức, tác động của gia nhập WTO đối với Việt Nam .
       
Phần I- TỔNG QUAN VỀ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ
NHÀ NƯỚC TA VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ GIA NHẬP WTO

1.1.  Hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta.
          Năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi Thư cho Tổng Thư ký Liên Hợp quốc, trong đó nêu rõ: "Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực. Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc ” [5].
        Tháng 7.1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời nhà báo nước ngoài như sau: "Chúng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát triển. Mà chỉ có thống nhất, độc lập thì tư bản Việt Nam mới có thể phát triển. Đồng thời, chúng tôi hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước thật thà cộng tác với chúng tôi. Một là để xây dựng lại Việt Nam sau lúc bị chiến tranh tàn phá, hai là để điều hoà kinh tế thế giới và giữ gìn hoà bình" [6]. Do hoàn cảnh lịch sử nên Việt Nam không thể triển khai một cách đầy đủ tư tưởng mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế nói trên của Đảng và Nhà nước ta trong suốt thời gian từ sau khi giành độc lập năm 1945 đến khi thống nhất Việt Nam về mặt Nhà nước năm 1976.
         1.2. Ngay sau khi thành lập CHXHCN Việt Nam, Việt Nam đã tìm mọi cách để mở rộng quan hệ thương mại với các nước, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, ký kết nhiều Hiệp định song phương liên quan hội nhập kinh tế quốc tế.
          Tháng 8-9.1976, Việt Nam tuyên bố kế thừa quy chế thành viên của chính quyền Sài gòn tại World Bank (9.8.1976), International Monetary Fund (20.9.1076). Tháng 9.1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp quốc. Hợp tác lao động giữa Việt Nam và các nước cũng được tiến triển mạnh. Tháng 6.1978, Việt Nam tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế các nước XHCN (SEV), tham gia vào nhiều điều ước quốc tế của SEV. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế đã được ban hành, đáng chú ý nhất là Điều lệ đầu tư của nước ngoài vào nước CHXHCN Việt Nam năm 1977.
          Ngày 17.7.1984 Bộ Chính trị ra Nghị Quyết số 19 về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước ghi rõ: “ưu tiên dành sự hợp tác cho các nước XHCN. Trong nhưng lĩnh vực và quy mô ta định hợp tác, khả năng và yêu cầu của bạn đến đâu, ta hợp tác đến đó. Phần còn lại hợp tác với các nước dân tộc chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Để khuyến khích hợp tác với các nước không phải XHCN, cần bổ sung và hoàn thiện Điều lệ đầu tư đã ban hành để có tính hấp dẫn hơn, nghiên cứu xây dựng một số quy định có liên quan, tiến tới xây dựng Bộ luật đầu tư hoàn chỉnh”. Tháng 12.1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được Quốc hội thông qua. Tiếp sau đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan cũng đãđược các cơ quan Nhà nước ta ban hành.
      Tháng 12.1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã quyết định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội lần thứ VII của Đảng tháng 6.1991 đã đề ra đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá theo tinh thần “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB ,… mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực ở Châu á-Thái Bình dương”. Từ tháng 10.1993, Việt Nam thiết lập lại được quan hệ bình thường với IMF, WB, ADB; thông qua các chương trình vay ưu đãi của IMF.               
       
           1.3. Gia nhập WTO là bước đi quan trọng trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách Hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
           Tháng 10.1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập ASEAN; tháng 12.1994 gửi đơn xin gia nhập WTO. Tháng 7.1995, Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN. Tháng 01. 1995, WTO chính thức nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam để tiến hành đàm phán cụ thể.
           Tháng 6.1996, Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hoá kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường quốc tế; mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
          Tháng 6. 1996 tham gia thành lập ASEM. Tháng 11.1998, Việt Nam trở thành thành viên APEC.
          Đại hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4.2001) đã khẳng định "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững".
          1.4. Ngày 27.11.2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07/NQ-TW về hội nhập kinh tế quốc tế (Nghị quyết số 07/NQ-TW). Ngày 03.02.2004, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 34-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng có nhấn mạnh nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký kết và chuẩn bị tốt các điều kiện để sớm gia nhập WTO; tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng, có tính cạnh tranh cao so với khu vực; tăng nhanh xuất khẩu và thu hút mạnh đầu tư nước ngoài.
        1.5. Đại hội lần thứ X của Đảng (tháng 4.2006) đã đưa ra những kết luận quan trọng về những thành tựu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua và đặt ra những nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay. Đại hội nhấn mạnh phải “Tạo bước ngoặt về Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại”. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, phải chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. Chuẩn bị tốt các điều kiện để bảo đảm thực hiện các cam kết khi nước ta gia nhập WTO.
           1.6. Ngày 07.11.2006, Việt Nam ký Nghị định thư cùng toàn bộ Bộ hồ sơ tài liệu về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập WTO. Ngày 29.11.2006, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 71/2006/QH11 phê chuẩn Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập WTO. Ngày 11.01.2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Ngày 05.02.2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 08/ NQ-TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bến vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới. Đây là văn kiện quan trọng liên quan trực tiếp đến các chủ trương, chính sách của Việt Nam sau khi Việt Nam đã là thành viên WTO [7]. Ngày 27.02.2007, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-TW nói trên [8].

Phần II- NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ WTO VÀ
KẾT QUẢ ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM

             1. WTO được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01.01.1995 [9], nhưng hệ thống pháp luật thương mại quốc tế thuộc diện điều chỉnh của Tổ chức này thì đã tồn tại từ trước đó. Năm 1947, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947) ra đời, đề ra hàng loạt các quy định cho hệ thống thương mại quốc tế. GATT 1947 đã vận hành không chỉ với tính cách là một điều ước quốc tế nhiều bên (GATT 1947) lớn nhất sau đại chiến thế giới lần thứ hai dưới sự bảo hộ của hệ thống Bretton Woods mà còn tồn tại như một Tổ chức quốc tế dạng tạm thời (GATT). Theo thời gian, các nước tham gia GATT đã tiến hành được nhiều vòng đàm phán. Vòng đàm phán cuối cùng và cũng là vòng đàm phán quan trọng nhất của GATT , Vòng đàm phán Urugoay, diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994 kết thúc tại thành phố Marrakesh, Marốc, đã cho ra đời Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
           2. Mục đích của WTO.
           Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này [10]. Tuy vậy, nói một cách đơn giản, WTO là nơi được tạo lập để chính phủ các nước có thể đến đó để trao đổi, thoả thuận với nhau những vấn đề chung của hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới.
         WTO trước tiên là một khuôn khổ thiết chế pháp luật quốc tế để đàm phán quốc tế. WTO còn được nhìn nhận như là tập hợp những quy định, quy tắc, luật chơi của thương mại, kinh doanh toàn cầu.
         Mục tiêu trọng tâm của WTO là góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho tự do thương mại nhưng vẫn tránh được những tác hại không mong muốn do một số hành vi tự phát của một số cá nhân, tổ chức mang lại. Đó là xoá bỏ những rào cản thương mại, thông báo những quy định thương mại hiện hành trên thế giới cho các cá nhân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, đồng thời bảo đảm với họ sẽ không có thay đổi đột ngột nào trong các chính sách, pháp luật đang được áp dụng.
        WTO còn có mục đích giúp các nước giải quyết tranh chấp.
     
        3. Các nguyên tắc của WTO.
        3.1. Thương mại không phân biệt đối xử
          Các nước thành viên WTO cam kết dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), tức là chế độ ở các lĩnh vực mình dành cho hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ của một nước bạn hàng này tới mức nào thì cũng phải dành cho hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ của các nước bạn hàng khác chế độ đãi ngộ như vậy, không có sự phân biệt đối xử nào. Tuy có quy định như vậy nhưng WTO cũng cho phép một số trường hợp ngoại lệ được miễn trừ áp dụng quy định về MFN.
          Các nước thành viên WTO cam kết dành cho nhau chế độ đãi ngộ quốc gia (NT), tức là chế độ không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, khi hàng nhập khẩu đã được đưa vào thị trường trong nước. Các quốc gia có chính sách đối xử như thế nào đối với hàng hoá sản xuất trong nước, thì cũng phải đối xử như vậy đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên WTO. Nội dung này yêu cầu hàng nhập khẩu phải được đối xử không kém phần thuận lợi hơn hàng nội địa ngay sau khi hàng nhập khẩu đã thâm nhập vào thị trường nội địa.
         3.2. Tự do hơn cho thương mại, kinh doanh quốc tế
          Nội dung cốt lõi của nguyên tắc tự do hơn cho thương mại quốc tế là cắt giảm dần từng bước hàng rào thuế quan và phi thuế quan, để đến một lúc nào đó trong tương lai sẽ xoá bỏ hoàn toàn và mở đường cho thương mại phát triển. WTO chủ trương không hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu giữa các nước thành viên thông qua tự do hoá thương mại từng bước. Tuy nhiên, WTO cũng cho phép có những trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng chế độ hạn chế số lượng hàng hóa nhập khẩu (QR), khi nước đó gặp những khó khăn về cán cân thanh toán, hoặc do trình độ phát triển thấp của nền kinh tế trong nước, hoặc vì những lý do về môi trường, an ninh quốc gia. Tuy vậy, đây chỉ là những trường hợp đặc biệt, có tính chất tạm thời, cần có thời hạn cụ thể để xoá bỏ hẳn và cần có sự chấp thuận của WTO và các nước thành viên liên quan theo các điều kiện thương mại quốc tế cụ thể.
           3.3. Ổn định trong hoạt động thương mại, kinh doanh quốc tế  [11]
            WTO chủ trương thương mại quốc tế phải được tiến hành trên cơ sở ổn định, minh bạch, công khai, không ẩn ý nhờ vào các cam kết thương mại quốc tế có tính ràng buộc và chính sách, pháp luật thương mại quốc gia minh bạch, công khai. Chính sách và pháp luật thương mại ổn định và minh bạch, công khai sẽ khuyến khích đầu tư, tạo công ăn việc làm; người tiêu dùng cũng tận dụng được nhiều lợi thế nhờ tự do cạnh tranh, có thêm nhiều cơ hội lựa chọn và được hưởng một mức giá thấp.
            Theo cơ chế thực thi nguyên tắc này, WTO thường xuyên giám sát chính sách, pháp luật thương mại của từng nước thành viên thông qua Cơ chế Rà soát chính sách, pháp luật thương mại nhằm tăng cường tính minh bạch trên cả bình diện quốc gia lẫn bình diện quốc tế.
         
            3.4.  Tăng cường cạnh tranh lành mạnh
           WTO luôn chủ trương tăng cường cạnh tranh lành mạnh, công bằng trong thương mại quốc tế, để cho chất lượng, giá cả quyết định vận mệnh của hàng hoá trong cạnh tranh trên thương trường; không được dùng quyền lực Nhà nước để áp đặt, bóp méo tính lành mạnh, công bằng của cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Những quy định liên quan đến nguyên tắc không phân biệt đối xử cũng nhằm mục tiêu bảo đảm để có những điều kiện tốt cho thương mại bình đẳng.
           3.5.Dành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển và chậm phát triển và khuyến khích các nước đó phát triển và cải cách kinh tế
           WTO đang cố gắng đáp ứng nhu cầu đặc biệt của các nước đó bằng ba cách thức cơ bản: Thứ nhất, đưa ra những quy định đặc biệt dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển; Thứ hai, lập ra Uỷ ban về thương mại và phát triển với tính cách là cơ quan chủ yếu của WTO lo các công việc của WTO trong lĩnh vực này cùng với một số uỷ ban khác như thương mại và nợ hoặc chuyển giao công nghệ; Thứ ba, cung cấp trợ giúp kỹ thuật (chủ yếu dưới các hình thức đào tạo) cho các nước đang phát triển và chậm phát triển thông qua Ban thư ký của WTO. Đối với các hiệp định thì thời hạn thực hiện dài hơn, các điều kiện ưu đãi hơn. Trong lời văn của các hiệp định của WTO có nhiều đoạn dành cho các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất một số quyền ưu đãi đặc biệt hay quyền được đối xử nhẹ hơn, mềm dẽo hơn, hay nói cách khác là quyền được “đối xử đặc biệt và đối xử khác biệt”. Ngoài ra, Ban thư ký của WTO còn có các cố vấn pháp lý đặc biệt có nhiệm vụ giúp đỡ, tư vấn pháp lý cho các nước đang phát triển trong các vụ tranh chấp tại WTO. WTO cũng có thể hỗ trợ cho các nước đang phát triển thông qua Viện Đào tạo và Hợp tác kỹ thuật của mình.
       
         4. Cơ cấu tổ chức của WTO [12].
      
        WTO được tổ chức và hoạt động bởi chính phủ của các nước thành viên. Tất cả các quyết định quan trọng đều được xây dựng và thông qua bởi các Bộ trưởng (ít nhất họp một lần trong 2 năm) hoặc các quan chức các nước (họp thường xuyên ở Geneva) chủ yếu trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận (consensus). Đến nay (tháng 04.2013), WTO có 159 nước thành viên chính thức (có 51 thành viên sáng lập WTO), khoảng 30 nước quan sát viên.
          Tổ chức của WTO bao gồm các cơ quan chủ yếu sau:
          a, Hội nghị Bộ trưởng. Đây là cơ quan cao nhất của WTO, trong 2 năm họp ít nhất một lần, bàn và giải quyết mọi công việc liên quan đến các hiệp định của WTO .
          b, Đại hội đồng. Đại hội đồng là cơ quan thuộc cấp độ thứ hai của WTO, sau Hội nghị Bộ trưởng, thay mặt Hội nghị Bộ trưởng giải quyết tất cả các công việc hàng ngày của WTO giữa hai kỳ họp Hội nghị Bộ trưởng; có trách nhiệm điều  hành các hoạt động và  thực hiện các nhiệm vụ của ba cơ quan: Đại hội đồng, Cơ quan Giải quyết tranh chấp và Cơ quan Rà soát chính sách, pháp luật thương mại.
            c, Các Hội đồng theo từng lĩnh vực thương mại lớn và các cơ quan khác. Có ba Hội đồng lớn trực thuộc Đại hội đồng, mỗi Hội đồng chịu trách nhiệm về một lĩnh vực thương mại lớn: Hội đồng thương mại hàng hoá (Hội đồng hàng hoá), Hội đồng thương mại dịch vụ (Hội đồng dịch vụ), Hội đồng các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hội đồng TRIPS). Có các Cơ quan trực thuộc Đại hội đồng được gọi là các “Uỷ ban”; Có các cơ quan trực thuộc khác phụ trách các lĩnh vực thuộc các hiệp định tuỳ nghi nhiều bên ; Có Uỷ ban đàm phán thương mại trong phạm vi Chương trình Doha phát triển, phải báo cáo công tác ra trước Đại hội đồng.
           
            d, Các đơn vị cơ sở. Là các cơ quan thuộc cấp độ thứ tư của WTO. Mỗi Hội đồng cấp cao đều có các cơ quan bổ trợ.
             Ngoài ra, WTO còn có các cuộc gặp cấp trưởng các phái đoàn đại diện và các nhóm phái đoàn.
          5.  Thành viên của WTO. 
         Điều XI Hiệp định thành lập WTO quy định vấn đề tư cách thành viên sáng lập WTO của những nước tham gia GATT và Cộng đồng Châu Âu và quy chế thành viên của các nước chậm phát triển nhất (LDCs). Điều XII Hiệp định thành lập WTO quy định các vấn đề liên quan đến việc gia nhập WTO. Theo quy định tại điều này, bất cứ quốc gia nào hoặc bất cứ lãnh thổ hải quan riêng biệt nào có quyền độc lập đầy đủ trong quan hệ ngoại thương và các vấn đề khác theo quy định của các hiệp định của WTO đều có thể trở thành thành viên gia nhập của WTO, theo các điều kiện thoả thuận giữa nước đó với WTO.
          6. Hệ thống các hiệp định của WTO.
        Hệ thống các hiệp định của WTO đến nay gồm các hiệp định của WTO điều chỉnh thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ. Các nước, các tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ thương mại quốc tế cần tuân thủ. Các hiệp định được xây dựng theo một cấu trúc đơn giản, gồm sáu phần: 1, một hiệp định khung (Hiệp định Marrakesh về việc thành lập WTO); 2, Các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh ba lĩnh vực lớn: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ; 3, Các quy định chi tiết liên quan đến ba lĩnh vực lớn: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ; 4, Các quy định bổ sung cho các lĩnh vực nói trên; 5, Giải quyết tranh chấp; và 6, Rà soát chính sách, pháp luật thương mại của các nước.
      
          7. Ban thư ký và ngân sách của WTO. Ban thư ký của WTO đóng tại Geneva (Thụy sĩ). Ban này đến năm 2013 có 629 cán bộ (342 nữ) trong biên chế, đứng đầu là Tổng Giám đốc, đương nhiệm là ông Pascal Lamy ( quốc tịch Pháp), và 4 Phó Tổng giám đốc. Ngân sách của WTO đến năm 2012 là khoảng 196 triệu Frans Thụy sĩ được hình thành từ sự đóng góp của các thành viên theo tỷ lệ trong tổng số hoạt động thương mại của thành viên đó.
       
          8. Kết quả đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam.        
         
          8.1. Các cam kết đa phương tổng quát [13]
         Các cam kết đa phương tổng quát được thể hiện trong Báo cáo của Ban công tác trên 30 nhóm vấn đề, trong đó có các cam kết chính như sau:
         8.1.1- Kinh tế phi thị trường:  Ta bị coi là nước có nền kinh tế phi thi trường trong 12 năm (không muộn hơn 31.12.2018). Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào đó là nền kinh tế của Việt Nam đã hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó sẽ ngừng áp dụng chế độ "phi thị trường" đối với ta. Chế độ "phi thị trường" nói trên chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp. Các Thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù (là cơ chế khác với cơ chế chung trong WTO mà một số nước có nền kinh tế phi thị trường khi gia nhập WTO phải chịu) đối với hàng hoá xuất khẩu của ta, dù ngành hàng kinh tế cụ thể đó của ta bị coi là ngành hàng kinh tế hoạt động trong điều kiện của nền kinh tế phi thị trường.
         8.1.2- Dệt may: các Thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với ta khi ta vào WTO (riêng trường hợp ta vi phạm quy định của WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may

thì một số nước có thể có biện pháp trả đũa nhất định). Ngoài ra, các Thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của ta.
         8.1.3. Trợ cấp phi nông nghiệp: Ta đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO (trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa). Tuy nhiên, với các ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta bảo lưu được thời gian quá độ là 05 năm (trừ đối với ngành dệt may).
         8.1.4. Trợ cấp nông nghiệp: ta cam kết sẽ không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực nảy. Đối với các loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm như một số hình thức hỗ trợ lãi xuất để thu mua nông sản, hỗ trợ dưới hình thức quy định giá sàn cho nông sản v.v.. (trợ cấp "hổ phách"), nhìn chung ta duy trì được trợ cấp ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm được một khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng/năm. Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này.
         Các loại trợ cấp mang tính khuyến nông, phát triển thủy lợi là trợ cấp "xanh" hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp, được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế.
        8.1.5. Quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa): Tuân thủ quy định của WTO, ta đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài có hiện diện thương mại tại Việt Nam được quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước. (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo, tạp chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm). Ta cũng đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu của các đối tượng này chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước.
        Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt là đối với các sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo, tạp chí.v.v..
          8.1.6. Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia: Các Thành viên WTO đồng ý dành cho ta thời gian chuyển đổi không quá 03 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định của WTO. Đối với rượu chưng cất trên 20 độ cồn, ta hoặc là sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm; đối với bia, ta sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm.
        8.1.7. Doanh nghiệp nhà nước/doanh nghiệp thương mại nhà nước: Cam kết của ta trong lĩnh vực này là Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của các DNNN. Tuy nhiên, Nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của DNNN không phải là mua sắm Chính phủ.
        8.1.8. Tỷ lệ cổ phần để thông qua quyết định tại doanh nghiệp: Điều 52 và 104 của Luật Doanh nghiệp quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện cho ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được tự thoả thuận vấn đề này trong Điều lệ công ty.
        8.1.9. Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu: Ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân khối lớn không muộn hơn ngày 31.05.2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, sẽ chỉ có 01 doanh nghiệp nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho 02 mặt hàng này là cao. Với ô tô cũ, ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 05 năm.
        8.1.10. Minh bạch hóa: Ta cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo của các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý tối thiểu là 60 ngày. Ta cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí hoặc trang tin điện tử (websites) của các Bộ, ngành.
        8.1.11. Một số nội dung khác: Đối với một số vấn đề đa phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (đặc biệt là việc sử dụng phần mềm hợp pháp trong các cơ quan Chính phủ), định giá tính thuế nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch, các hàng rào kỹ thuật trong thương mại v.v... ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập.
        
        8.2. Các cam kết về mở cửa thị trường thương mại hàng hoá [14]
        Mở cửa thị trường thương mại hàng hóa được thực hiện thông qua việc cắt giảm thuế nhập khẩu và loại bỏ hàng rào phi quan thuế cản trở thương mại.
        Riêng về cam kết giảm thuế nhập khẩu, ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (l0.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4%, thực hiện dần trong vòng 05-07 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện trong khoảng 05 năm. Với hàng công nghiệp, mức bình quân giảm từ 16,8% xuống 12,6%, thực hiện chủ yếu trong vòng từ 05 đến 07 năm. Mức giảm thuế bình quân chỉ có ý nghĩa so sánh đơn giản và hết sức khái quát. Cạnh tranh là trên từng mặt hàng cụ thể, tương ứng với từng dòng thuế cụ thể theo mã HS 08 số. Có mặt hàng giảm nhiều, có mặt hàng giảm ít.
           Khoảng hơn 1/3 số dòng của biểu thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ô tô, xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử.
            Như tất cả các nước mới gia nhập khác, ta cũng cam kết tham gia một số hiệp định tự do hoá theo ngành như sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế v.v.. Thời gian để giảm thuế là từ 03-05 năm.
          Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng đối với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối.
         
          8.3. Các cam kết về mở cửa thị trường thương mại dịch vụ [15]
          Về diện cam kết, trong Hiệp định Thương mại song phương Việt nam - Hoa Kỳ (BTA), ta đã cam kết 08 ngành dịch vụ (khoảng 43 phân ngành ba chữ số). Trong thỏa thuận gia nhập WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110/155. Về mức độ cam kết, thoả thuận WTO đi xa hơn BTA nhưng không nhiều.
         8.3.1. Cam kết chung cho các ngành dịch vụ: Về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể (những ngành như vậy không nhiều). Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng với tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa của ngành đó. Riêng ngân hàng, ta chỉ cho phép nước ngoài được mua tối đa 30% cổ phần.
         8.3.2. Dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí: Các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 05 năm kể từ khi gia nhập để cung ứng các dịch vụ hỗ trợ cho khai thác đầu khí. Tuy nhiên, ta vẫn giữ quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định công ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Ta cũng bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ v.v.. Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (hiện nay ta không có chế độ đăng ký này).
        8.3.3- Dịch vụ viễn thông: Ta có thêm một số nhân nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta. Cụ thể là: ta cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng của các doanh nghiệp do Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng có giới hạn việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đánh đổi lấy việc giữ lại các hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số vốn mới được đầu tư vào hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có gắn với hạ tầng mạng và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt nam đã được cấp phép). Như vậy, với dịch vụ có gắn với hạ tầng mạng, ta vẫn giữ được mức cam kết như BTA, một yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng của ta.
         8.3.4. Dich vụ phân phối: về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết, thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA (01.01.2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách, báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, phân bón, xi măng... ta chỉ mở cửa thị trường sau 03 năm. Quan trọng nhất, ta hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (mở từ điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể).
         8.3.5. Dịch vụ bảo hiểm: về tổng thể, mức độ cam kết ngang với BTA. Tuy nhiên, ta đồng ý cho thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 05 năm kể từ khi gia nhập.
         8.3.6. Dịch vụ ngân hàng: Ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 01.4.2007. Ngoài ra, ngân hàng nước ngoài được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó sẽ không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ thể nhân Việt Nam trong vòng 05 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam (không quá 30%).
         8.3.7. Dịch vụ chứng khoán: Ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 05 năm kể từ khi ta gia nhập WTO.
         8.3.8.Dịch vụ pháp lý: Ta cho phép Tổ chức luật sư nước ngoài (là tổ chức của các luật sư hành nghề do một hoặc nhiều luật sư hoặc công ty luật nước ngoài thành lập ở nước ngoài dưới bất kỳ hình thức công ty thương mại nào (kể cả hãng luật, công ty luật trách nhiệm hữu hạn, công ty luật cổ phần v.v…) được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức sau: Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài; Công ty con của tổ chức luật sư nước ngoài; Công ty luật nước ngoài ( là tổ chức do một hoặc nhiều tổ chức luật sư nước ngoài thành lập tại Việt Nam với mục đích hành nghề luật ở Việt Nam); Công ty hợp danh giữa tổ chức luật sư nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam.
          Hiện diện thương mại của tổ chức luật sư nước ngoài không được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hay đại diện cho khách hàng của mình trước Tòa án Việt Nam, không được hành nghề dịch vụ giấy tờ pháp lý và công chứng liên quan tới pháp luật Việt Nam. Tuy vậy, hiện diện thương mại của tổ chức luật sư nước ngoài được phép tư vấn về pháp luật Việt Nam nếu luật sư tư vấn đã tốt nghiệp đại học luật của Việt Nam và đáp ứng được các yêu cầu áp dụng cho luật sư  của Việt Nam hành nghề tương tự.
           8.3.9. Các cam kết khác: Với các ngành còn lại (du lịch, giáo dục, kế toán, xây dựng, vận tải ..), mức độ cam kết về cơ bản không khác so với BTA. Ngoài ra, ta cũng không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản.

Phần III- NHỮNG LUẬT LỆ CƠ BẢN CỦA WTO CẦN CHÚ Ý

           1- LUẬT LỆ THƯƠNG MẠI  HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
           1.1. Khái niệm Hàng hoá và Thương mại hàng hoá quốc tế
           Để xác định một sản phẩm nào là Hàng hoá thì các nước phải dựa vào các quy định của Công ước của Tổ chức Hải quan thế giới về Hệ thống hài hoà về mã số và mô tả hàng hoá (Công ước HS). Bất cứ sản phẩm nào được liệt kê vào, được mô tả và được mã hoá trong Danh mục HS của Công ước HS, thì sản phẩm đó được thừa nhận là Hàng hoá trong giao dịch thương mại quốc tế.
          Liên quan đến khái niệm hàng hóa, cần chú ý đến khái niệm hàng hóa tương tự. Đây là khái niệm thường làm phát sinh các tranh chấp trong thực tiễn thương mại quốc tế.
         Thương mại hàng hoá quốc tế được hiểu là tổng thể các hoạt động thương mại liên quan tới Hàng hoá được các nước tiến hành với nhau. Khái niệm Thương mại phải được hiểu theo cách hiểu rộng của thuật ngữ này. Theo chú giải của Uỷ ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hợp quốc (UNCITRAL) tại Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế, thuật ngữ Thương mại cần được hiểu theo nghĩa rộng của nó để làm sao bao quát hết các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang bản chất thương mại, bất kể quan hệ đó có mang tính hợp đồng hay không.
         1.2. Các rào cản Thuế quan
          Thuế quan thường được hiểu là khoản thu của Nhà nước đánh vào hàng hoá khi hàng hoá đó di chuyển từ Lãnh thổ hải quan này sang Lãnh thổ hải quan khác nhằm tăng nguồn thu ngân sách quốc gia và bảo hộ hàng hoá tương tự, ngành kinh tế hàng hoá tương tự trong nước. Thuế quan cũng còn được hiểu là Danh mục thuế quan, tức là Danh mục HS  quốc gia được xây dựng trên cơ sở Danh mục HS quốc tế mà trong đó trên mỗi Dòng HS quốc gia có ghi rõ các mức thuế suất thuế nhập khẩu cụ thể của mỗi dòng HS (Dòng thuế quan). Những vấn đề quan trọng liên quan tới thuế quan mà các nước thường quan tâm bao gồm: Danh mục thuế quan, Mức thuế trần và Lộ trình giảm thuế quan.
          1.3. Các rào cản phi thuế quan:
         Hàng rào phi thuế quan là khái niệm chỉ các rào cản đối với thương mại không phải thuế quan như: cơ chế cấp giấy phép nhập khẩu; các quy định về định giá hải quan đối với hàng hoá; kiểm hoá trước khi xuất; các quy tắc xuất xứ; các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại…
          a, Giấy phép nhập khẩu:
          WTO có Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu( Hiệp định cấp phép). Hiệp định cấp phép quy định một số giấy phép phải được gọi là tự động, khi đơn xin phép đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện, quy định các tiêu chí áp dụng trong trường hợp này sao cho các thủ tục được áp dụng không gây hạn chế đối với thương mại ( Điều 2). Một số loại giấy phép khác được gọi là không tự động( Điều 3 ).
          b, Các quy định về xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá
         WTO có Hiệp định trị giá Hải quan (Hiệp định CVA) đưa ra một loạt các quy định về định giá Hải quan, đồng thời mở rộng và làm rõ những điều khoản tương đương có trong Hiệp định GATT ban đầu.
              Hiệp định CVA đã đưa ra hệ thống các quy tắc định giá tính thuế dựa trên các tiêu chuẩn công bằng có tính đến các tập quán thương mại quốc tế. Quy tắc cơ bản được dùng để xác định trị giá hải quan là xác định mức thuế trên cơ sở giá trị giao dịch mà người nhập khẩu đã chấp nhận khi mua hàng. Tuy nhiên, Hiệp định CVA cũng cho phép cơ quan tính thuế có thể từ chối giá trị giao dịch này khi họ có lý do để nghi ngờ giá trị tính thuế do người nhập khẩu khai báo hoặc những chứng từ sản phẩm do người nhập khẩu nộp là không chính xác hoặc không đúng sự thật. Đối với trường hợp này, Hiệp định CVA đã đưa ra năm phương pháp xác định trị giá hàng hoá khác để cơ quan tính thuế dựa vào đó xác định giá trị tính thuế như sau: 1) trị giá giao dịch của hàng hoá giống hệt, 2) trị giá giao dịch của hàng hoá tương tự, 3) trị giá khấu trừ, 4) trị giá theo tính toán, 5) trị giá theo suy luận hợp lý.
          c, Giám định hàng hoá trước khi xếp hàng:
           Luật thương mại quốc tế thừa nhận việc áp dụng các nguyên tắc và nghĩa vụ của GATT/WTO cho hoạt động của các cơ quan giám định hàng hoá được các chính phủ uỷ quyền tiến hành hoạt động này. Các  nước xuất khẩu là thành viên của WTO phải có nghĩa vụ không áp dụng một cách phân biệt đối xử luật lệ và quy định trong nước đối với những “người sử dụng dịch vụ”, công bố không chậm trễ các luật lệ và quy định về việc này và hỗ trợ về mặt kỹ thuật khi được yêu cầu. Ngoài ra, WTO còn có một cơ chế xem xét độc lập các tranh chấp. Cơ chế này do Liên đoàn các công ty giám kiểm hàng hoá quốc tế (IFIA), đại diện cho các công ty giám kiểm hàng hoá, và Phòng Thương mại quốc tế (ICC), đại diện cho các nhà xuất khẩu, phối hợp điều hành. Cơ chế này có mục đích giải quyết tranh chấp giữa nhà xuất khẩu và công ty giám kiểm  hàng hoá.
          d, Các quy tắc xuất xứ:
           WTO có Hiệp định về Quy tắc xuất xứ ( Hiệp định RO). Hiệp định RO quy định một khuôn khổ để thống nhất về quy tắc xuất xứ không ưu đãi, những quy tắc mà sẽ điều chỉnh thương mại quốc tế khi không có hiệp định thương mại tự do hay liên minh thuế quan. Xuất xứ thông thường cần phải được quyết định theo sự chuyển dịch của dòng thuế (sự thay đổi về nhóm mã HS của dòng thuế) tức là khi các nguyên liệu hay linh kiện được xếp vào một nhóm mã HS của dòng thuế này nhưng sản phẩm cuối cùng được sản xuất ra lại được xếp vào một nhóm mã HS khác. Tuy nhiên, có một số trường hợp vì quy định chặt chẽ của nhóm mã HS mà việc thay đổi hình dạng giản đơn không đem lại xuất xứ mới. Cũng có các tình huống, đối với các sản phẩm nhạy cảm, các nước thành viên mong muốn có cách tiếp cận khác, chẳng hạn, quy định một bộ phận cấu thành quan trọng của sản phẩm phải có nguồn gốc từ nước xuất xứ, hoặc một tỷ lệ cụ thể chi phí sản xuất phải phản ánh hàm lượng nội địa, hoặc một số nguyên liệu nhất định (như là cotton được sử dụng trong sản xuất hàng dệt) phải có xuất xứ trong nước…
          đ, Các biện pháp đầu tư liên quan thương mại
           WTO có Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại ( Hiệp định TRIMs) . Hiệp định TRIMs chỉ áp dụng cho các biện pháp gây cản trở cho viêc tiến hành các hoạt động thương mại hàng hoá. Hiệp định thừa nhận một số biện pháp có thể gây hạn chế hoặc bóp méo thương mại hàng hoá. Hiệp định quy định không áp dụng những biện pháp phân biệt đối xử đối với người hoặc hàng hoá nước ngoài (tức là vi phạm nguyên tắc “đối xử quốc gia” của GATT) và làm hạn chế khối lượng hàng hoá lưu thông (trái với một nguyên tắc khác của GATT). 
         1.4. Các quy định về nông nghiệp và nông sản
            Hiệp định về nông nghiệp cho phép các chính phủ được hỗ trợ khu vực nông thôn nhưng bằng những biện pháp tác động tối thiểu đến cạnh tranh. Các nước đang phát triển không bị buộc phải giảm trợ cấp hoặc thuế suất bằng với mức của các nước phát triển .
Các nước buộc phải giảm bớt những biện pháp có tác động trực tiếp tới sản xuất và trao đổi hàng hoá. Các biện pháp ít gây ảnh hưởng tới trao đổi hàng hoá có thể được xếp vào loại “hộp xanh” (giống như tín hiệu đèn xanh cho phép tiếp tục lưu thông). Một số khoản đền bù trực tiếp cho nông dân khi họ bị buộc phải hạn chế sản xuất (có lúc được gọi là “hộp xanh lam”), một số chương trình trợ giúp của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và nông thôn tại các nước đang phát triển và các biện pháp hỗ trợ khác có quy mô khiêm tốn (nguyên tắc “minimis” - không đáng kể) so với tổng giá trị của sản phẩm hoặc tổng giá trị của các sản phẩm được trợ cấp (dưới 5% đối với các nước phát triển và dưới 10% đối với các  nước đang phát triển) cũng có thể được phép áp dụng.
         Đối với trợ cấp xuất khẩu, Hiệp định về nông nghiệp cấm việc trợ cấp cho xuất khẩu nông sản, trừ phi chúng được nêu rõ trong các danh mục cam kết của các nước thành viên. Trong trường hợp đó, các nước sẽ bị buộc phải giảm đồng thời mức trợ cấp và khối lượng hàng hoá xuất khẩu được trợ cấp.
          1.5.  Các quy định về tiêu chuẩn và an toàn sản phẩm
          Luật thương mại quốc tế cho phép các nước được can thiệp vào các giao dịch hàng hoá nhằm bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của con người và động vật hoặc bảo tồn các loài thực vật, với điều kiện các nước không được phân biệt đối xử và không được lạm dụng nhằm bảo hộ trá hình. Ngoài ra, WTO có riêng hai hiệp định điều chỉnh mức độ an toàn của lương thực, sức khoẻ và sự an toàn cho các loài động thực vật ( Hiệp định SPS), cũng như tiêu chuẩn kỹ thuật đối với một số sản phẩm ( Hiệp định TBT).
          1.6. Các quy định về dệt may:
          Từ năm 1974 đến cuối Vòng đàm phán Urugoay, thương mại sản phẩm dệt may chịu sự điều chỉnh của Hiệp định Đa sợi (MFA). Từ năm 1995, Hiệp định Dệt may của WTO (ATC) đã thay thế cho Hiệp định Đa sợi. Đến ngày 01/01/2005, ngành dệt may cần phải áp dụng hoàn toàn hệ thống các luật lệ thông thường của GATT, đặc biệt, các nước phải xoá bỏ hạn ngạch, và các nước nhập khẩu không được đối xử  phân biệt giữa các nước xuất khẩu.
          1.7. Các quy định về chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ:
          a, Các biện pháp chống bán phá giá
          Điều VI Hiệp định GATT 1994 quy định về chống bán phá giá (AD) như sau: “ Các Bên ký kết nhận thấy rằng bán phá giá, với việc  sản phẩm của một nước này được đưa vào kinh doanh trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị bình thường của sản phẩm này, phải bị lên án nếu việc đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất đáng kể cho một ngành kinh tế tại lãnh thổ của một Bên ký kết hay thực sự làm chậm trể sự thiết lập một ngành kinh tế trong nước.” WTO có Hiệp định về thực thi Điều VI của GATT nói trên, thường được gọi là “Hiệp định chống bán phá giá”( Hiệp định AD).
          Định nghĩa pháp lý về bán phá giá được nêu rất cụ thể trong Hiệp định AD, theo đó một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu của sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại bình thường ("giá trị bình thường") của sản phẩm tương tự được tiêu thụ tại thị trường nước xuất khẩu. WTO không đề cập đến trường hợp bán phá giá sản phẩm tương tự trong thị trường nội địa của một nước
          Hiệp định AD cho phép chính phủ các nước có biện pháp chống bán phá giá khi ngành sản xuất trong nước thực sự bị thiệt hại vật chất do việc bán phá giá gây ra. Muốn vậy, chính phủ nước có liên quan phải chứng minh được là có hành vi bán phá giá, tính được biên độ phá giá (mức độ thấp hơn, chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá lưu hành trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu) và chứng minh được rằng việc bán phá giá đang gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất đáng kể.
         Hiệp định AD quy định chi tiết các thủ tục liên quan tới việc khởi kiện chống bán phá giá, cách thức tiến hành điều tra và những điều kiện phải tuân thủ nhằm bảo đảm cho tất cả các bên liên quan quyền được đưa ra bằng chứng có lợi cho mình.  Biện pháp chống bán phá giá thường được định là đánh thuế quan bổ sung lên sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm đẩy giá của sản phẩm đó ngang bằng với “giá trị bình thường” hoặc nhằm chấm dứt thiệt hại mà ngành sản xuất của nước nhập khẩu phải chịu. Một biện pháp chống phá giá chỉ được áp dụng nếu việc phá giá gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất đáng kể cho ngành sản xuất của nước nhập khẩu. Do đó, trước khi áp dụng biện pháp chống phá giá, nước nhập khẩu phải tiến hành điều tra kỹ càng, phù hợp với những quy trình tố tụng cụ thể. Các cuộc điều tra chống phá giá phải chấm dứt ngay lập tức, nếu cơ quan có thẩm quyền xác định được rằng biên độ phá giá là quá nhỏ, tức dưới 2% giá xuất khẩu. Các điều kiện khác cũng được nêu ra trong Hiệp định AD. Chẳng hạn, cơ quan có thẩm quyền cũng phải chấm dứt điều tra, nếu hàng hoá nhập khẩu được bán phá giá với số lượng không đáng kể, tức lượng hàng xuất khẩu bán phá giá của một nước thấp hơn 3% tổng giá trị nhập khẩu của sản phẩm đó. Tuy nhiên, các cuộc điều tra AD có thể được tiếp tục nếu tổng lượng hàng xuất khẩu bán phá giá của những nước thuộc diện này chiếm ít nhất 7% tổng giá trị nhập khẩu.
          Các biện pháp chống phá giá phải chấm dứt sau năm năm kể từ ngày đưa vào áp dụng các biện pháp đó, trừ phi có một cuộc điều tra AD khác chứng minh rằng việc bãi bỏ biện pháp AD này có thể gây ra thiệt hại cho ngành kinh tế trong nước.
           b, Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
           WTO có Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM). Hiệp định SCM có chức năng kép: thiết lập kỷ cương đối với trợ cấp của các quốc gia, và quy định các biện pháp mà các nước có thể áp dụng nhằm bù đắp các hậu quả của trợ cấp.
         Hiệp định SCM đưa ra định nghĩa pháp lý về trợ cấp.“Trợ cấp” được hiểu là khoản tài chính được chính phủ hay các cơ quan công quyền cấp cho tổ chức thương mại hoặc doanh nghiệp thông qua: a/ chuyển kinh phí trực tiếp; b/ miễn giảm một khoản thu của Nhà nước; c/ cung cấp miễn phí một dịch vụ hay hàng hoá thay vì cơ sở hạ tầng chung hoặc c/ chi một khoản kinh phí để tài trợ cho các hoạt động liên quan đến thực hiện các mục a,b,c nói trên, với điều kiện là trong mỗi trường hợp đó lợi ích thuộc về tổ chức thương mại hoặc doanh nghiệp nhận khoản tài chính đó.
          Hiệp định SCM có quy định: a) Các trợ cấp bị cấm (hay còn gọi là trợ cấp đèn đỏ), đó là các khoản trợ cấp có kèm điều kiện buộc người hưởng trợ cấp phải đạt được một số yêu cầu về xuất khẩu hoặc ưu tiên sử dụng hàng sản xuất trong nước hơn là hàng nhập khẩu. Loại trợ cấp  này bị cấm vì chúng rõ ràng được sử dụng để bóp méo cạnh tranh trong thương mại quốc tế và do đó có nguy cơ gây hại cho thương mại của các nước khác. b) Các trợ cấp có thể bị đối kháng (hay còn gọi là trợ cấp đèn vàng), tức là trợ cấp không bị cấm nhưng là đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp đối kháng. c) Các trợ cấp không thể bị đối kháng (hay còn gọi là trợ cấp đèn xanh), tức là những trợ cấp không mang tính đặc thù, hoặc những trợ cấp đặc thù nhưng đáp ứng một số điều kiện nhất định
           Hiệp định SCM thừa nhận hai phương thức thường tồn tại song song được phép áp dụng để xử lý các trường hợp trợ cấp bất hợp pháp. Thứ nhất, đó là các bên tư nhân tại nước thành viên có thể khởi kiện theo pháp luật trong nước để áp đặt một khoản thuế nhằm làm cân bằng lại hay đối kháng lại các khoản trợ cấp bất hợp pháp, nếu các yêu cầu về pháp lý và thủ tục tố tụng được thoả mãn. Thứ hai: chính phủ nước thành viên có thể có biện pháp thông qua Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO nếu nước nguyên đơn chứng minh được rằng các loại trợ cấp này vi phạm Hiệp định SCM và gây thiệt hại đối với lợi ích của mình.
          c, Các biện pháp tự vệ trong trường hợp khẩn cấp
          Hiệp định GATT tại Điêù XIX  có “điều khoản giải thoát khỏi nghĩa vụ” cho phép các thành viên WTO được “chạy thoát” khỏi các nghĩa vụ về giảm thuế của mình trong các tình huống nhất định, theo đó nếu do hậu quả của những tiến triển không lường trước được và do ảnh hưởng của các camm kết đối với một bên ký kết theo Hiệp định này, kể cả các nhượng bộ về thuế, bất kỳ sản phẩm nào được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng tăng và trong các điều kiện gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước hoặc sản phẩm cạnh tranh trực tiếp trong nước tại lãnh thổ đó, thì bên ký kết này được quyền dừng việc thực hiện toàn bộ hay một phần nghĩa vụ hoặc rút lại hoặc sửa đổi sự nhượng bộ liên quan tới sản phẩm đó và ở mức độ và trong khoảng thời gian có thể là cần thiết để ngăn chặn hay khắc phục thiệt hại này. WTO có Hiệp định về thực thi Điều XIX nói trên của GATT, thường được gọi là “Hiệp định về các biện pháp tự vệ”( Hiệp định tự vệ).              
        
      
          2. LUẬT LỆ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ QUỐC TẾ
          2.1. Khái niệm Dịch vụ và Thương mại dịch vụ
           a, Định nghĩa “ Dịch vụ”  
           Để xác định một hành vi hoặc một hoạt động nào là dịch vụ, các nước phải tuân theo quy định của Liên Hợp quốc về dịch vụ, đặc biệt là phải tuân theo quy định của Bảng phân loại các dịch vụ cơ bản của Liên Hợp quốc (Danh mục PCPC/CPC ). Bất cứ một hành vi hoặc một hoạt động nào được liệt kê vào, được mô tả và được mã hoá trong Danh mục PCPC/CPC nói trên, thì hành vi hoặc hoạt động đó được thừa nhận là dịch vụ trong giao dịch thương mại quốc tế.
          Liên quan đến khái niệm dịch vụ, cần chú ý đến khái niệm “dịch vụ công” (Governmental services). “Dịch vụ công” được hiểu là dịch vụ theo Danh mục PCPC/CPC được cung cấp để thực thi công quyền của một nước (chủ yếu là các dịch vụ theo Danh mục PCPC/CPC được cung cấp để thi hành các nhiệm vụ, quyền hạn của chính phủ, các cơ quan nhà nước ở trung ương cũng như các chính quyền địa phương).
          b, Định nghĩa "Thương mại dịch vụ":
           GATS có định nghĩa khá rõ ràng về thương mại dịch vụ. Thương mại dịch vụ được hiểu là sự cung cấp một dịch vụ :
         .Từ lãnh thổ của một nước này ( nước cung ứng dịch vụ) đến lãmh thổ của  một nước khác ( nước sử dụng dịch vụ) theo phương thức “cung ứng dịch vụ qua biên giới” (hay “phương thức 1” theo ngôn từ của WTO);
         .Trên lãnh thổ của một nước này (nước sử dụng dịch vụ) cho người sử dụng dịch vụ của bất kỳ nào nước khác theo phương thức  “tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài” (“phương thức 2”);
         . Bởi người – tổ chức - cung ứng dịch vụ của nước  này (nước cung cấp dịch vụ) tại bất kỳ một nước khác ( nước sử dụng dịch vụ ) theo phương  thức  “hiện diện thương mại” (“phương thức 3”);
         . Bởi người – thể nhân - cung cấp dịch vụ của nước này ( nước cung cấp dịch vụ) tại bất kỳ một nước khác ( nước sử dụng dịch vụ) theo phương thức  “hiện diện của thể nhân” (“phương thức 4”).
          2.2. Các rào cản đối với thương mại dịch vụ
       Do các dịch vụ có những đặc tính khác với hàng hóa nên cách chọn lập các rào cản đối với dịch vụ cũng khác với hàng hóa. Có nhiều rào cản trong hoạt động thương mại dịch vụ, nhưng cơ bản vẫn là các rào cản sau:
   - Các hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ dưới hình thức hạn ngạch số lượng, độc quyền, các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền hay các đòi hỏi kiểm định về nhu cầu kinh tế cần thiết;
  - Các hạn chế về tổng giá trị của các giao dịch dịch vụ hay tài sản dưới các hình thức hạn ngạch số lượng hay các đòi hỏi kiểm định về nhu cầu kinh tế cần thiết;
  - Các hạn chế về tổng số các giao dịch dịch vụ  hay tổng số lượng đầu ra của dịch vụ thông qua các đơn vị số lượng đã được xác định dưới hình thức hạn ngạch hay các đòi hỏi kiểm định về nhu cầu kinh tế cần thiết;
  - Các hạn chế về tổng số các thể nhân có thể được thuê trong một lĩnh vực dịch vụ cụ thể hay một nhà cung cấp dịch vụ có trhể thuê và họ là những người cần thiết, và liên quan trực tiếp tới việc cung cấp một dịch vụ nhất định dưới hình thức hạn ngạch số lượng hay các đòi hỏi kiểm định về nhu cầu kinh tế cần thiết;
   - Các hạn chế hay đòi hỏi theo các hình thức thực thể pháp lý nhất định hay liên doanh mà thông qua đó một nhà cung cấp dịch vụ có thể cung cấp một dịch vụ;
  - Các hạn chế về sự tham gia góp vốn nước ngoài như hạn chế tỷ lệ tối đa đối với phần nắm giữ vốn của bên nước ngoài hay tổng giá trị của từng dự án hay tổng số dự án đầu tư nước ngoài.
         2.3. Những nguyên tắc cơ bản
         - Đối xử tối huệ quốc (MFN).
          Ưu đãi nào đã được dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của một nước thì phải được dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của tất cả các nước khác, trừ trường hợp có ngoại lệ được WTO chấp nhận.
         -Tuân thủ các cam kết mở cửa thị trường (MA) và đãi ngộ quốc gia (NT).
         Cam kết của các nước về mở cửa thị trường nội địa và mức độ mở cửa  trong các lĩnh vực cụ thể chính là kết quả của các cuộc đàm phán. Các cam kết này được liệt kê lại trong các “danh mục” các ngành sẽ được mở cửa, mức độ mở cửa đối với mỗi ngành (những hạn chế đối với sự tham gia của đối tác nước ngoài được nêu rõ nếu cần) và các hạn chế có thể có đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (tức khi một số ưu đãi được dành cho các công ty trong nước nhưng không dành cho các công ty nước ngoài). Những cam kết này phải quy định rõ ràng và là “ràng buộc”. Các cam kết trong thương mại dịch vụ chỉ có thể được thay đổi sau khi đã thương lượng với các nước liên quan.
          - Chấp nhận loại trừ các “dịch vụ công” (Governmental services) khỏi luật chơi
         Các dịch vụ công được loại ra khỏi Luật lệ thương mại quốc tế và không có quy định nào của GATS buộc các chính phủ và các cơ quan công quyền khác phải tư nhân hoá hoặc xã hội hóa các ngành công nghiệp dịch vụ này. Trong quan hệ giữa các nước thành viên WTO, ngoại lệ này tạo thành một cam kết rõ ràng từ phía các chính phủ thành viên WTO cho phép dùng quỹ công tài trợ cho các dịch vụ công trong những lĩnh vực cơ bản thuộc trách nhiệm của các chính phủ và các cơ quan công quyền. Các dịch vụ công ở đây được cung ứng không mang tính thương mại hay cạnh tranh với các nhà cung ứng dịch vụ khác. Trong trường hợp này, các chính phủ và các cơ quan công quyền khác chỉ tuân thủ những nghĩa vụ tối thiểu như bảo đảm sự minh bạch trong cách thức điều tiết ngành dịch vụ này và không được phân biệt đối xử giữa các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài với nhau khi họ được yêu cầu cung cấp dịch vụ cho chính phủ và các cơ quan công quyền khác.
         - Bảo đảm tính minh bạch, công khai.
         Luật thương mại quốc tế quy định pháp luật trong nước phải bảo đảm tính minh bạch, công khai, trừ những vấn đề thuộc ngoại lệ chung và ngoại lệ thuộc lĩnh vực an ninh được WTO quy định tại các điều XIV và XIVbis của GATS.  Chính phủ các nước phải công bố tất cả các luật, quy định phù hợp và thiết lập các điểm thông tin trong các cơ quan hành chính của mình. Từ các điểm thông tin này, các công ty và chính phủ nước ngoài có thể lấy thông tin liên quan đến các quy định điều chỉnh ngành dịch vụ này hay ngành dịch vụ khác. Các nước thành viên GATS /WTO phải thông báo cho WTO tất cả những thay đổi về quy định điều chỉnh các ngành dịch vụ là đối tượng của các cam kết cụ thể. GATS không buộc các nước phải dỡ bỏ mọi quy định trong bất cứ ngành dịch vụ nào. Các cam kết tự do hoá không làm phương hại đến quyền của các nước được ấn định những chuẩn mực về chất lượng, độ an toàn hay giá cả cũng như quyền được đưa ra các quy định nhằm theo đuổi bất cứ mục tiêu chung nào mà họ cho là phù hợp.
        -Công nhận hệ thống quy chuẩn, yêu cầu chất lượng.
        Khi hai (hay nhiều) chính phủ ký các hiệp định công nhận hệ thống quy chuẩn, yêu cầu chất lượng của nhau (chẳng hạn, trong việc cấp giấy phép hoặc chứng nhận cho các nhà cung ứng dịch vụ đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu chất lượng), thì họ phải tạo điều kiện cho các thành viên khác được đàm phán với họ về các thoả thuận tương tự. Việc công nhận hệ thống quy chuẩn, yêu cầu chất lượng của các nước không được mang tính phân biệt đối xử cũng như mang tính bảo hộ trá hình.
        - Được thanh toán và chuyển tiền quốc tế theo lộ trình tự do hoá từng bước.
        Một khi đã cam kết mở cửa một ngành dịch vụ cho cạnh tranh nước ngoài thì về nguyên tắc chính phủ không được cấm việc chuyển tiền ra nước ngoài dưới danh nghĩa chi trả cho các dịch vụ đã tiêu dùng (“giao dịch vãng lai”) trong ngành này. Chỉ có một trường hợp ngoại lệ duy nhất được quy định trong hiệp định đó là trường hợp một nước gặp khó khăn về cán cân thanh toán, nhưng ngay cả trong trường hợp này thì các quy định cấm đó chỉ có thể được áp dụng tạm thời và phải tuân thủ những hạn chế và điều kiện khác.
          2.4. Các quy định đặc biệt
          a, Các quy định về di trú đối với thể nhân.
         Các quy định  này liên quan đến quyền của các cá nhân được tạm thời xuất cảnh, cư trú, đi lại tại một nước để cung ứng một dịch vụ. Các quy định này không áp dụng cho những người đang tìm kiếm một việc làm thường xuyên cũng như không được sử dụng như một điều kiện đã được đáp ứng để xin quy chế công dân, quy chế thường trú hoặc một công việc thường xuyên.
         b, Dịch vụ tài chính
         Sự bất ổn của hệ thống ngân hàng có thể gây phương hại tới toàn bộ nền kinh tế. Theo quy định về dịch vụ tài chính thì các chính phủ có toàn quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa, chẳng hạn, để bảo vệ các nhà đầu tư, người gửi tiền và người mua bảo hiểm, để bảo đảm tính thống nhất và ổn định của hệ thống tài chính. Tuy vậy, các quy định này cũng nêu rõ Hiệp định GATS không áp dụng đối với các dịch vụ được cung cấp nhằm thực thi quyền lực của chính phủ đối với hệ thống tài chính, ví dụ như các dịch vụ do các ngân hàng trung ương cung cấp.
         c, Viễn thông
          Ngành viễn thông đóng một vai trò kép, nó vừa là một ngành hoạt động kinh tế riêng biệt, vừa là một thành tố của hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động kinh tế khác (chẳng hạn như việc chuyển tiền điện tử). Theo các quy định này, chính phủ các nước phải bảo đảm cho các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài được sử dụng các mạng viễn thông công cộng mà không phải chịu bất cứ sự phân biệt đối xử nào.
         đ, Các dịch vụ vận tải hàng không
          Theo quy định, các quyền không lưu và các hoạt động đi kèm với chúng thường thuộc phạm vi điều chỉnh của các hiệp định song phương. Tuy nhiên, các quy định của Luật thương mại quốc tế sẽ được áp dụng cho các dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng máy bay, cho việc thương mại hoá các dịch vụ vận tải hàng không và cho các dịch vụ của hệ thống đặt vé qua mạng. Hiện nay các nước thành viên WTO đang xem xét lại các quy định này.
      
         3. LUẬT LỆ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
         3.1. Khái niệm sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ
          Điều 1.2 của Hiệp định TRIPS định nghĩa thuật ngữ "sở hữu trí tuệ" có nghĩa là tất cả các đối tượng sở hữu trí tuệ (tài sản trí tuệ) nêu tại các mục từ mục 1 đến mục 7 của Phần II của Hiệp định này, tức bao gồm: Bản quyền và các quyền có liên quan; Nhãn hiệu hàng hoá; Chỉ dẫn địa lý; Kiểu dáng công nghiệp; Patent; Thiết kế bố trí (topographies) mạch tích hợp và Bảo hộ thông tin bí mật. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền phát sinh từ sở hữu trí tuệ đó.
         3.2. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
         Các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPS bao gồm: Bản quyền và quyền liên quan; Nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ; Chỉ dẫn địa lý; Bản vẽ về kiểu dáng công nghiệp; Bằng sáng chế; Sơ đồ bố trí mạch tích hợp; Bảo vệ thông tin bí mật.
        Hiệp định đề cập năm nội dung chính: các nguyên tắc cơ bản của hệ thống thương mại và các hiệp định quốc tế khác về sở hữu trí tuệ được áp dụng; mức độ bảo hộ thích hợp đối với quyền sở hữu trí tuệ; bảo đảm cho các quyền này được tôn trọng một cách thoả đáng trên lãnh thổ của nước thành viên; giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ giữa các nước thành viên WTO; áp dụng các thoả thuận đặc biệt trong thời gian chuyển đổi.
          3.3. Một số quy định cụ thể về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
        Các quyền sở hữu trí tuệ có thể rất khác nhau và cách thức bảo hộ chúng cũng khác nhau. Vấn đề đặt ra là làm sao để các quy định phù hợp về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được tất cả các nước áp dụng. Theo cách đó, nền tảng pháp luật quốc tế của việc bảo hộ phải là những nghĩa vụ được ghi trong các hiệp định quốc tế  ký kết trong khuôn khổ Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và WTO, đặc biệt là Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (văn bằng, bản vẽ công nghiệp, v.v.), Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật (quyền tác giả), Hiệp định TRIPS.
         a, Về quyền tác giả (copyrights)
Luật lệ thương mại quốc tế quy định các quyền tác giả phải được bảo hộ như đã được quy định trong các văn bản của WIPO và WTO. Chẳng hạn, chương trình máy tính sẽ được bảo hộ như các tác phẩm văn học theo đúng Công ước Berne. Tuy vậy, Hiệp định TRIPS mở rộng phạm vi điều chỉnh của các quy định quốc tế về bản quyền tác giả đối với quyền thuê lại, theo đó tác giả của các chương trình máy tính và các nhà thu âm còn có quyền không cho công chúng thuê các tác phẩm của họ. Độc quyền tương tự cũng được dành cho các tác phẩm điện ảnh. Việc kinh doanh, cho thuê đã khiến các tác phẩm điện ảnh bị sao chép rất nhiều, khiến người nắm giữ quyền tác giả không thu được hết lợi nhuận mà mình đáng được hưởng.. Người phiên dịch hoặc người biểu diễn cũng có quyền không cho thu âm, sao chép và phổ biến rộng rãi các hoạt động của họ ít nhất là trong vòng 50 năm. Các nhà sản xuất băng đĩa cũng có quyền không cho sao chép  lại các sản phẩm của họ trong vòng 50 năm.
b, Về nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ (Trademarks)
Luật lệ thương mại quốc tế định rõ các nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ cần được bảo hộ trong mức độ cần thiết, đặc biệt là các quyền tối thiểu; chủ sở hữu các nhãn hiệu dịch vụ phải được bảo hộ như chủ sở hữu các nhãn hiệu hàng hoá. Các nhãn hiệu nổi tiếng ở các nước phải còn được bảo hộ theo các quy chế bổ sung.
c, Về chỉ dẫn địa lý (Geographical Indications)
Tên một khu vực địa lý, một địa điểm đôi khi được sử dụng để nhận dạng một sản phẩm. “Chỉ dẫn địa lý” này không những chỉ ra nơi sản phẩm được sản xuất, mà đặc biệt còn chỉ ra các đặc tính của sản phẩm có được từ nguồn gốc của nơi sản xuất ra nó.
Các tên “Champagne”, “Scotch”, “Tequila” và “Roquefort” là những ví dụ mà ai cũng biết. Những nhà sản xuất rượu vang và rượu mạnh đặc biệt coi trọng việc sử dụng địa danh để nhận dạng các sản phẩm này. Chỉ dẫn địa lý được một số điều khoản đặc biệt của Hiệp định TRIPS điều chỉnh. Tuy vậy, đây cũng là một vấn đề quan trọng đối với các loại hàng hoá khác.
Việc sử dụng tên một khu vực địa lý, một địa điểm khi sản phẩm được sản xuất ở nơi khác hoặc không có được những tính năng vốn có của sản phẩm sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh. Hiệp định TRIPS quy định nghĩa vụ các nước thành viên phải ngăn cấm việc sử dụng bừa bãi các địa danh gắn lên sản phẩm.
Đối với rượu vang và rượu mạnh, các hiệp định quy định mức độ bảo hộ cao hơn, tức là ngay cả khi không có nguy cơ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
Luật lệ thương mại quốc tế cho phép một số ngoại lệ, đặc biệt khi địa danh đã được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hoá hoặc thương hiệu hoặc khi nó đã trở thành tên chung. Ví dụ từ “Cheddar” ngày nay được dùng để chỉ một loại phomát đặc biệt không nhất thiết phải được sản xuất ở vùng Cheddar thuộc nước Anh. Tuy nhiên, nước nào muốn nêu ngoại lệ vì những lý do này đều phải tiến hành đàm phán với những nước cũng muốn bảo hộ chỉ dẫn địa lý đó.
d, Về bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp (Industrial Designs)
Theo Luật lệ thương mại quốc tế, các bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp phải được bảo hộ ít nhất trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo hộ phải có quyền ngăn cấm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc có chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ.
đ, Bằng phát minh sáng chế (Patents)
Luật lệ thương mại quốc tế quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông qua văn bằng sáng chế trong vòng ít nhất 20 năm. Cả sản phẩm lẫn phương thức sản xuất đều được bảo hộ trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ. Chính phủ các nước có thể từ chối cấp văn bằng sáng chế nếu việc khai thác kinh doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội. Họ cũng có thể không cấp văn bằng cho các phương pháp chẩn đoán, điều trị và phẫu thuật, các loại thực vật và động vật (không phải là các chủng vi sinh vật), và các phương pháp sinh học sản xuất giống cây trồng và vật nuôi (không phải là các phương pháp vi sinh). Tuy nhiên, các giống cây phải được bảo vệ bằng các bằng phát minh hoặc bằng một hệ thống đặc biệt (như hệ thống bảo vệ quyền của người được cấp phép được quy định trong các công ước của Liên minh quốc tế bảo hộ giống cây trồng).
Luật lệ thương mại quốc tế có định ra các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu văn bằng sáng chế. Tuy nhiên, ở đây cũng quy định một số ngoại lệ. Có thể xảy ra trường hợp người sở hữu văn bằng sáng chế lạm dụng các quyền của mình, như không cung ứng sản phẩm cho thị trường. Trong trường hợp đó Chính phủ các nước có thể cấp “giấy phép bắt buộc” cho phép một đối thủ cạnh tranh được sản xuất sản phẩm này hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo hộ. Tuy nhiên, chính phủ các nước cũng đồng thời phải đáp ứng một số điều kiện nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của người giữ văn bằng sáng chế. Nếu là văn bằng sáng chế về quy trình sản xuất thì các sản phẩm được sản xuất trực tiếp từ quy trình này cũng được bảo hộ. Trong một số trường hợp, người vi phạm có thể bị buộc phải chứng minh trước toà án về việc họ không sử dụng quy trình đã được cấp văn bằng sáng chế.
Cho tới gần đây, đối với việc bảo hộ các dược phẩm đã được cấp văn bằng sáng chế vẫn là vấn đề phức tạp nhất là chữa trị căn bệnh HIV/AIDS. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để vừa không cản trở các nước nghèo tiếp cận các loại thuốc chữa bệnh, vừa duy trì được vai trò của văn bằng sáng chế là khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển trong ngành dược phẩm. Một số quy định mềm dẻo, như khả năng nhượng lại “giấy phép bắt buộc”, đã được đưa vào Hiệp định TRIPS/WTO. Tuy nhiên, một số chính phủ đang đặt ra câu hỏi cần phải diễn giải các quy định này như thế nào, và làm thế nào để bảo đảm quyền sử dụng các quy định này. Phần lớn vấn đề này đã được giải quyết khi các Bộ trưởng các nước thành viên WTO họp và thông qua một tuyên bố đặc biệt tại Hội nghị Doha vào tháng 11-2001. Các Bộ trưởng nhất trí rằng Hiệp định TRIPS sẽ không ngăn cản và không được ngăn cản các nước thành viên áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Họ nhấn mạnh rằng các nước có thể sử dụng các quy định mềm dẻo trong Hiệp định TRIPS và nhất trí tiếp tục miễn cho các nước kém phát triển phải bảo vệ các dược phẩm đã được cấp văn bằng sáng chế cho tới năm 2016. Đối với vấn đề còn tồn đọng, các bộ trưởng cũng giao cho Hội đồng TRIPS giải quyết làm sao để các quy định trở nên mềm dẻo hơn nữa nhằm giúp các nước không có khả năng tự sản xuất dược phẩm có thể nhập khẩu thuốc được sản xuất theo “giấy phép bắt buộc”.
e, Về sơ đồ bố trí mạch tích hợp (Integrated circuits layout designs - Topographies)
Việc bảo hộ sơ đồ bố trí mạch tích hợp được thực hiện trên cơ sở Hiệp định Washington về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp. Tuy đã được thông qua vào năm 1989 nhưng Hiệp định này vẫn chưa có hiệu lực. Hiệp định TRIPS/WTO bổ sung thêm một số điều khoản, chẳng hạn như mạch tích hợp phải được bảo hộ ít nhất là 10 năm.
g, Bảo hộ thông tin mật và bí quyết thương mại (Undisclosed nformation and Trade secrets)
Bí quyết thương mại và các loại “thông tin mật” khác có giá trị thương mại phải được bảo vệ nhằm ngăn chặn việc lạm dụng lòng tin và các hành vi khác trái với nguyên tắc làm ăn trung thực. Tuy vậy, cũng cần phải đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ bí mật của các thông tin này. Nếu được cung cấp các kết quả thử nghiệm trong quá trình cấp phép dược phẩm hoặc sản phẩm hoá học phục vụ nông nghiệp thì chính phủ phải bảo vệ các kết quả này nhằm ngăn ngừa việc khai thác thương mại bất hợp pháp.
h, Các hợp đồng li-xăng chống cạnh tranh trong thương mại (Curbing anti - competitive licensing contracts)
Chủ sở hữu bản quyền tác giả, văn bằng hoặc bất cứ quyền sở hữu trí tuệ nào khác đều có thể cho phép một người khác sản xuất hay sao chép nhãn hiệu hàng hoá hoặc dịch vụ, tác phẩm, sáng chế, bản vẽ hoặc các mẫu mã được bảo hộ. Luật thương mại quốc tế cho phép, trong một số trường hợp, người chủ sở hữu có thể hạn chế ký kết các hợp đồng chuyển giao công nghệ, bản quyền tác giả dạng độc quyền, không có cạnh tranh hoặc cản trở việc chuyển giao công nghệ bằng cách đưa vào hợp đồng chuyển giao đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (còn gọi là hợp đồng li - xăng) một  số các điều kiện như vậy. Luật lệ thương mại quốc tế cũng cho phép chính phủ các nước, trong một số điều kiện nhất định, có quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa hành vi chống cạnh tranh và lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực nhượng bản quyền. Tuy vậy, Chính phủ các nước phải sẵn sàng tham khảo nhau nhằm hạn chế áp dụng các hành vi này.
3.4. Phương thức bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Có được các luật lệ tốt về sở hữu trí tuệ là chưa đủ, các nước còn phải làm sao để luật lệ được tuân thủ chặt chẽ. Vấn đề này đã được WTO quy định, theo đó, chính phủ các nước phải bảo đảm thực thi pháp luật về bảo hộ được quyền sở hữu trí tuệ và các trường hợp vi phạm phải bị trừng trị thích đáng. Các thủ tục áp dụng phải hợp pháp, công bằng và không quá phức tạp và không phải tốn kém một cách không cần thiết. Các thủ tục này không được đề ra thời hạn quá dài hoặc gây chậm trễ một cách vô lý. Những người có liên quan phải được phép yêu cầu toà án xem xét lại quyết định của cơ quan hành chính cho dù đó đã là bản quyết định cuối cùng hoặc xét xử phúc thẩm một bản án của toà án cấp dưới.
Hiệp định TRIPS /WTO có các quy định mô tả chi tiết các công cụ bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là các quy định liên quan tới việc thu thập chứng cứ, các biện pháp tạm thời, các biện pháp tư pháp của toà án, các khoản bồi thường thiệt hại và các biện pháp xử phạt khác. Hiệp định quy định, trong một số điều kiện nhất định, toà án có quyền ra lệnh đưa ra khỏi hệ thống phân phối hoặc tiêu huỷ các loại hàng giả, hàng nhái. Các hành vi cố ý làm giả, nhái nhãn mác hoặc thương hiệu ở mức độ thương mại trong kinh doanh, gây phương hại tới quyền sở hữu trí tuệ phải bị coi là hành vi phạm tội hình sự. Chính phủ các nước phải làm sao để người nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ được các cơ quan hải quan hỗ trợ nhằm ngăn chặn tại biên giới, không cho hàng giả hoặc hàng nhái được nhập khẩu vào lãnh thổ quốc gia.                                                                   
Phần IV- NHỮNG CƠ HỘI, THÁCH THỨC, TÁC ĐỘNG
CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI VIỆT NAM
              4.1. Những cơ hội chung đối với Việt Nam
             Theo Nghị quyết số 08/ NQ-TW ngày 05.02.2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bến vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới[16], nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau:
         Một là, có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu vào các nước Thành viên WTO với tư cách là một đối tác bình đẳng, không bị phân biệt đối xử và theo mức thuế các nước thành viên WTO cam kết. Đây là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá, dịch vụ của nước ta, tạo thêm việc làm, góp phần giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
          Hai là, thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, thể chế kinh tế thị trường nước ta ngày càng hoàn thiện, môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thuận lợi, thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, trong đó có các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến, đóng góp ngày càng quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
       Ba là, gia nhập WTO sẽ thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh bạch, môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, khơi dậy mạnh mẽ những tiềm năng to lớn của đất nước và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân; việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sẽ hiệu quả hơn; tăng trưởng kinh tế, do đó, sẽ nhanh và bền vững hơn.
        Bốn là, là thành viên WTO,  nước ta có địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham giavào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương mại với các thành viên khác, hạn chế những thiệt hại.
        Năm là, chúng ta có hiện đường lối đối ngoại của Đảng: "Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế", phát huy vai trò của nước ta trong khu vực và quốc tế, xây dựng quan hệ đối tác bình đẳngvới các nước trên thế giới.
             4.2. Những thách thức chung đối với Việt Nam
             Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Theo Nghị quyết số 08/ NQ-TW ngày 05.02.2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bến vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới[17], nước ta đứng trước những thách thức lớn như sau:
        Một là, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đó là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 03 đến 05 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
          Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v…Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
         Hai là, trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá kinh tế là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Gia nhập WTO, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế có thể làm tăng thêm sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các vùng, miền của đất nước. Có bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí có thể bị tác động tiêu cực; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
           Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới.
           Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
        Bốn là, đội ngũ cán bộ, công chức nước ta còn thiếu và yếu cả về năng lực chuyên môn, trình độ tin học, ngoại ngữ. Đặc biệt, chúng ta còn thiếu một đội ngũ luật sư giỏi, thông thạo pháp luật quốc tế và ngoại ngữ để giải quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh. Lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng lớn, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếunhiều.
        Năm là, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những thách thức lớn đối với chế độ chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng và việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, việc bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững của đất nước.   
         4.3. Những cơ hội mới, thách thức mới, tác động của gia nhập WTO và yêu cầu mới đối với các ngành kinh tế khi Việt Nam là Thành viên WTO.
        4.3.1. Yêu cầu phải nghiêm chỉnh chấp hành các luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO
 a, Tổng quan về yêu cầu thực hiện các luật lệ của WTO và các cam kết với WTO
WTO được biết đến như một thiết chế quốc tế đa biên vận hành trên cơ sở luật lệ kinh tế thị trường. Hệ thống luật lệ của WTO khá đồ sộ, phức tạp, hội tụ các tư tưởng, trường phái pháp luật khác nhau, được thiết kế để quản trị một cơ chế đa biên vận hành theo các luật chơi của kinh tế thị trường.
 Theo quy định tại Khoản 2 Điều IX của Hiệp định Marrakesh về việc thành lập WTO ( Hiệp định Marrakesh ), thì Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng là hai cơ quan duy nhất có thẩm quyền riêng biệt trong việc giải thích Hiệp định Marrakesh và các Hiệp định thương mại đa biên của WTO. Điều XIV Hiệp định Marrakesh quy định các vấn đề công nhận và hiệu lực của Hiệp định. Vấn đề rút khỏi Hiệp định Marrakesh được quy định tại Điều XV. Theo quy định tại Khoản 5 Điều XVI Hiệp định Marrakesh, thì các nước Thành viên WTO không có quyền bảo lưu đối với các quy định của Hiệp định Marrakesh, họ chỉ được thực hiện quyền này đối với các quy định của các các Hiệp định thương mại đa biên trong phạm vi và mức độ mà các hiệp định cụ thể đó cho phép. Theo quy định tại Khoản 4 Điều XVI của Hiệp định Marrakesh,“Mỗi Thành viên phải đảm bảo sự thống nhất của các luật, các quy định dưới luật và những quy tắc hành chính với các nghĩa vụ của mình được quy định trong các Hiệp định của WTO”.
          Theo quy định tại điểm 2,3,4 Phần I‑ Quy định chung của Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập WTO, thì “Hiệp định Marrakesh (Hiệp định WTO) mà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam gia nhập là Hiệp định WTO bao gồm cả Chú giải cho Hiệp định này, được chỉnh lý, sửa đổi hay thay đổi bằng cách nào thông qua các văn bản pháp luật có hiệu lực trước thời điểm Nghị định thư này có hiệu lực. Nghị định thư này, bao gồm cả những cam kết được nêu tại đoạn 527 trong Báo cáo của Ban Công tác, là một bộ phận không tách rời của Hiệp định WTO. Trừ khi có quy định khác tại đoạn 527 trong Báo cáo của Ban Công tác, những nghĩa vụ trong các Hiệp định Thương mại đa phương là Phụ lục của Hiệp định WTO cần được đưa vào thực hiện trong một thời hạn nhất định kể từ thời điểm Hiệp định này có hiệu lực, sẽ được nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thực hiện như trong trường hợp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã chấp nhận Hiệp định này vào thời điểm Hiệp định này có hiệu lực. Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có thể duy trì một biện pháp không phù hợp với khoản 1 Điều II của Hiệp định GATS với điều kiện biện pháp này được quy định trong danh mục các miễn trừ của Điều II đi kèm theo Nghị định thư này và đáp ứng các điều kiện của Phụ lục Hiệp định GATS về các miễn trừ của Điều II.”
  b, Tổng quan về yêu cầu đối với các ngành kinh tế trong thực hiện các luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO.
          Để xử lý yêu cầu thực hiện đúng các luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO, Việt Nam đã gia nhập Công ước Viên năm 1969 về Luật các điều ước quốc tế; Quốc hội thông qua Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 trong đó khẳng định nguyên tắc Việt Nam phải nghiêm chỉnh chấp hành các cam kết quốc tế của Việt Nam ( Pacta sunt servanda ) và khả năng áp dụng trực tiếp các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; các cơ quan Nhà nước ta cũng đã thảo luận phương án xây dựng các văn bản thực thi các quy định của WTO theo kỹ thuật một văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác (Omnibus Laws) [18]... Các Bộ, ngành đã xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong nước và soạn thảo các văn kiện pháp lý quốc tế phù hợp với các yêu cầu, quy định của WTO.
        Tuy vậy, việc hiểu đúng và chấp hành nghiêm chỉnh các luật lệ của WTO là thách thức không nhỏ trong hoạt động hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam khi tham gia thương mại quốc. Để thực hiện được yêu cầu nói trên, mỗi cán bộ, công chức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam phải nghiên cứu và hiểu rõ, đầy đủ, toàn diện về bản chất, tổ chức, hoạt động, luật lệ của WTO và tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân về các yêu cầu của WTO để thực hiện đúng yêu cầu đó.
         Bên cạnh việc nghiêm chỉnh chấp hành các luật lệ của WTO, Việt Nam nói chung, các ngành kinh tế nói riêng còn phải nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết với WTO, đặc biệt là các cam kết về mở cửa thị trường thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ của Việt Nam cho các Thành viên WTO được thể hiện rõ trong Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam.    
          Như đã biết, toàn bộ văn kiện pháp lý chính thức của WTO cũng như Bộ hồ sơ cam kết của Việt Nam với WTO được lập bằng tiếng Anh; bản dịch ra tiếng Việt chỉ là bản để sử dụng thuận tiện tham khảo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước khi thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO. Nếu có sự khác biệt giữa bản tiếng Việt và bản tiếng Anh, kể cả khi Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam với WTO, thì phải lấy bản tiếng Anh làm căn cứ pháp lý để xử lý vấn đề cho dù trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam tại Việt Nam, tiếng nói và chữ viết dùng trong giao dịch chính thức vẫn phải là tiếng Việt. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng đối với các ngành kinh tế trong quá trình xử lý các vụ việc phát sinh trong thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO.
          Bộ hồ sơ cam kết của Việt Nam với WTO còn cho thấy có thể sẽ phải có những thay đổi đáng kể trong một số quy định của pháp luật nước ta, đặc biệt là các quy định của các Bộ, ngành hướng dẫn thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO theo các cam kết về cắt giảm thuế quan, loại bỏ mạnh các biện pháp phi thuế quan trong thương mại hàng hoá, mở cửa mạnh các lĩnh vực dịch vụ then chốt. Đó là chưa nói đến việc cán bộ, công chức các ngành kinh tế phải nghiêm chỉnh chấp hành các luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO và các nước, phải tham khảo các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, các các toà án quốc tế, các học thuyết kinh tế-dân sự-pháp lý khác nhau trong nghiên cứu giải quyết các vụ việc thương mại quốc tế trong khi vẫn phải thực thi các quy định pháp luật trong nước liên quan.
          Việc gia nhập WTO được coi là bước thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ  kinh tế quốc tế, gắn liền và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, cơ cấu lại nền kinh tế vì sự phát triển bền vững của kinh tế nước nhà. Tham gia WTO thực chất là tham gia phân chia lao động quốc tế, phân chia thị trường quốc tế, giành và sử dụng tối đa lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế theo những luật lệ chặt chẽ, luật chơi chung của cơ chế thị trường. Thời gian qua, chúng ta đã làm được nhiều việc ở lĩnh vực nghiên cứu, phổ biến và tuyên truyền ở Việt Nam về WTO, về các vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy vậy, chúng ta chưa có được kết quả điều tra nghiên cứu toàn diện về vấn đề này. Những kết quả khảo sát bước đầu cho thấy có không ít doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh vẫn chưa rõ luật lệ của WTO, chưa rõ họ phải ứng phó ra sao khi việc gia nhập WTO đã trở thành hiện thực. Đặc biệt, họ không nhận rõ được sự cạnh tranh sẽ khốc liệt như thế nào sau khi gia nhập WTO, không biết ai là đối thủ cạnh tranh, không rõ đối thủ sẽ làm gì và mình ứng phó ra sao cho tốt. Một số vụ tranh chấp kinh tế, thương mại quốc tế chỉ mới đánh thức họ cần sử dụng luật sư tư vấn trong một số vấn đề pháp luật quốc tế mà thôi. Nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế đến các trường, viện nghiên cứu, đến các cơ quan của Nhà nước, các doanh nghiệp để giới thiệu các luật lệ của WTO, giải đáp nhiều băn khoăn cho người nghe. Tuy vậy, khi vấn đề gia nhập WTO đã trở thành hiện thực, thì sự hoài nghi của họ về luật lệ và thực tiễn thương mại của WTO không vì vậy mà giảm đi, đôi khi có vấn đề càng gia tăng, trở nên có tính thời sự. Bên cạnh đó, đa số quần chúng nhân dân lao động địa phương thì thờ ơ, coi việc gia nhập WTO là câu chuyện của các cơ quan Trung ương, của các doanh nghiệp và không ảnh hưởng gì đến họ, họ vẫn là họ sau luỹ tre làng truyền thống.
          4.3.2. Yêu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nghĩa vụ Thành viên của WTO và giải pháp xử lý vấn đề
          a, Tổng quan về hệ thống pháp luật theo yêu cầu của WTO
           Theo quy định tại Điều XVI Khoản 4 Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO, “Mỗi Thành viên phải đảm bảo sự thống nhất của các luật, các quy định dưới luật và những quy tắc hành chính với các nghĩa vụ của mình được quy định trong các Hiệp định của WTO” nên việc rà soát, đối chiếu các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam (Rà soát WTO) là yêu cầu không thể thiếu. Đây là yêu cầu rất khó khăn và nặng nề trong quá trình thực hiện. Mặt khác, các quy định, luật lệ của WTO rất chung, rất trừu tượng, có gắn kết với nhiều học thuyết kinh tế, thương mại quốc tế và các án lệ thương mại quốc tế và căn cứ vào thực tiễn hoàn thiện pháp luật của các nước Thành viên WTO thời gian qua.
        Việc rà soát WTO phải đề cập tới toàn bộ các Hiệp định của WTO, tập trung vào 3 lĩnh vực lớn: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Kết quả rà soát WTO do Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành từ tháng 12.2001 đến tháng 4.2005 cho thấy đã có 311 văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến các quy định của Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa kỳ (BTA) và WTO [19].
           Theo quy định tại Điều XXIV Khoản 12 của GATT 1947, " Mỗi Bên ký kết Hiệp định sẽ có những biện pháp hợp lý và trong phạm vị quyền hạn của mình để các chính phủ hay chính quyền địa phương trên lãnh thổ của mình tuân thủ các quy định của Hiệp định này". Điều XXVI Khoản 5a của GATT 1947 quy định tiếp: " a, Mỗi Chính phủ khi chấp nhận Hiệp định này là chấp nhận cho cả lãnh thổ chính quốc và lãnh thổ mà Chính phủ đó đại diện trên trường quốc tế, ngoại trừ các lãnh thổ quan thuế được Chính phủ đó có văn bản thông báo rõ cho Thư ký điều hành của các Bên ký kết vào thời điểm nộp văn bản chấp nhận." Theo quy định của GATT 1994, các điều khoản trên là bộ phận cấu thành của GATT 1994. Văn bản Giải thích Điều XXIV Khoản 12 của GATT 1994 nêu rõ :
     " 13. Mỗi thành viên phải chịu hoàn toàn trách nhiệm theo GATT 1994 về việc tuân thủ các quy định của GATT 1994, và sẽ thực hiện các biện pháp hợp lý đó khi có thể sẵn sàng đảm bảo sự tuân thủ như vậy bởi các chính quyền địa phương và các khu vực và các cơ quan trong lãnh thổ của họ.
       14. Các điều khoản của Điều XXII và Điều XXIII của GATT 1994 đã được hướng dẫn chi tiết và được áp dụng, Cách hiểu về Giải quyết tranh chấp có thể được viện dẫn đối với các biện pháp ảnh hưởng đến việc tuân thủ của Thành viên được thực hiện bới các chính quyền địa phương hay khu vực hoặc các cơ quan trong lãnh thổ của một Thành viên. Khi Cơ quan giải quyết tranh chấp đã quyết định rằng một điều khoản của GATT 1994 chưa được tuân thủ, thì Thành viên có trách nhiệm phải thực hiện các biện pháp hợp lý khi có thể sẵn sàng để đảm bảo sự tuân thủ.
        15. Mỗi Thành viên thực hiện sự quan tâm ủng hộ sự phù hợp và có đầy đủ cơ hội cho việc tham vấn liên quan tới bất kỳ các đại diện nào do Thành viên khác cử ra liên quan đến các biện pháp ảnh hưởng tới sự triển khai GATT 1994 được thực hiện trong lãnh thổ của mình".
        Như vậy, các quy định của WTO là rất rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, Chính phủ và chính quyền địa phương trong thực thi các cam kết quốc tế với WTO. Xuất phát từ yêu cầu này của WTO, các hoạt động của các ngành kinh tế ở trung ương cũng như ở các cấp địa phương Việt Nam phải bảo đảm tuân thủ với các nghĩa vụ của Việt Nam với WTO đã nêu trên. Việc rà soát WTO không những chỉ phải tiến hành đối với các văn bản do các cơ quan trung ương ban hành mà còn phải tiến hành đối với cả các văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Công việc này được Thủ tướng Chính phủ giao cho Uỷ ban nhân dân các cấp tiến hành.
       b, Tổng quan về yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam
         Ngay sau khi kết thúc đàm phán ngày 26.10.2006 về điều kiện và  quy chế  thành viên WTO của Việt Nam, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiếp tục rà soát, đối chiếu các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến các cam kết cụ thể của Việt Nam trong Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và  quy chế  thành viên WTO của Việt Nam ( Rà soát WTO+).
          Nếu xét về việc thực hiện Chương trình hoàn thiện pháp luật khi gia nhập WTO có thể thấy Chương trình này của Việt Nam đã thành công tốt đẹp.
         Theo báo cáo tổng hợp, Bộ Tư pháp nhận thấy, sau khi có kết quả Rà soát WTO, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được thông qua trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế: trong thời gian trước năm 2005 là 38 văn bản Luật, Pháp lệnh; trong năm 2005 đã thông qua hơn 20 văn bản Luật, Pháp lệnh; đến hết tháng 12. 2006 đã thông qua 11 Luật và Pháp lệnh liên quan trực tiếp đến WTO. Nhiều văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản của các Bộ, ngành hướng dẫn thi hành các Luật, Pháp lệnh nói trên, phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế và WTO cũng đã được ban hành. Một số điều ước quốc tế nhiều bên quan trọng liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và WTO đã được Việt Nam gia nhập. Nhiều điều ước quốc tế song phương về đầu tư, tín dụng, hàng hải thương thuyền, du lịch, hàng không... đã được ký kết. Bên cạnh đó Việt Nam cũng tích cực tham gia vào các hoạt động hội nhập kinh tế khu vực và liên khu vực trong phạm vi ASEAN, APEC, ASEM, ASEAN-Trung Quốc, ASEAN- Úc-NZ, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Hàn Quốc, VN- Hoa Kỳ. TPP...
        Đối chiếu với yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và quy chế thành viên WTO của Việt Nam, sau khi rà lại toàn bộ vấn đề theo yêu cầu Rà soát WTO và Rà soát WTO+, chúng ta nhận thấy Việt Nam không phải bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản quy phạm pháp luật để thực thi các cam kết của Việt Nam về điều kiện và quy chế  thành viên WTO của Việt Nam. Về luật và pháp lệnh, trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, trong thời hạn ba năm sau khi gia nhập WTO, đã sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để thực thi cam kết về thuế đối với rượu, bia... Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, đã điều chỉnh một số quy định của Bộ luật hình sự để bảo đảm các cam kết về các biện pháp chế tài liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ... Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, trong 05 năm sau khi gia nhập WTO, cần điều chỉnh một số quy định của Luật Dầu khí để cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để cung ứng dịch vụ hỗ trợ cho khai thác dầu khí; Ban hành Luật Viễn thông để có các quy định về việc cho phép thành lập doanh nghiệp liên doanh đa số vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạn tầng mạng, nới lõng cung cấp dịch vụ qua biên giới. Sửa đổi Luật chứng khoán trong 05 năm sau khi gia nhập WTO để cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam...Về quy định liên quan đến minh bạch, công khai, phải điều chỉnh một số quy định của các Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hoá các quy định liên quan đến cơ chế lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân khác nhau đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Về các văn bản dưới luật, pháp lệnh, phải điều chỉnh một số văn bản có các quy định liên quan đến các luật, pháp lệnh nói trên và cần ban hành một số văn bản cấp Chính phủ, Bộ, ngành để hướng dẫn cụ thể thi hành các cam kết của Việt Nam theo Bộ hồ sơ cam kết về điều kiện và quy chế  thành viên WTO của Việt Nam.
        c, Một số vấn đề pháp luật cần tiếp tục nghiên cứu xử lý trong quá trình xét xử các vụ việc dân sự- kinh tế, thương mại có yếu tố nước ngoài
 Qua nghiên cứu nội dung các quy định của WTO và các cam kết của Việt Nam với WTO, đối chiếu với các quy định hiện hành của pháp luật nước ta, chúng ta có thể nhận thấy có một số không ít các vấn đề pháp luật cần được tiếp tục nghiên cứu xử lý sau khi nước ta gia nhập WTO. Các vấn đề đó có thể là các vấn đề thuộc về quan niệm pháp luật thực định. Chúng cũng có thể là những vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ chuyên môn pháp luật. Nhưng dù là vấn đề lý luận hay thực tiễn thì chúng cũng là vấn đề thách thức đối với các ngành kinh tế trên bước đường hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi các cam kết WTO của Việt Nam.
Thứ nhất, đó là khái niệm về "thương mại". Khái niệm "thương mại" trong thực tiễn thương mại quốc tế được hiểu theo nghĩa rất rộng. Trong khi đó Luật thương mại Việt Nam năm 2005 có quan niệm chưa hắn thích ứng về vấn đề này. Việc quan niệm như vậy, trên thực tế đã làm phát sinh không ít phức tạp khi Việt Nam thực thi Công ước Niu-Ước năm 1958 về công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng như áp dụng Luật Thương mại và Pháp lệnh về trọng tài thương mại. Theo Quyết định số 453/CTN ngày 28.7.1995 của Chủ tịch nước về việc gia nhập Công ước Niu-Ước, việc giải thích thuật ngữ "quan hệ pháp luật thương mại" trong Công ước đó trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam (đến nay thì không rõ sẽ phải theo cách hiểu của Luật thương mại hay cách hiểu của Pháp lệnh về trọng tài thương mại).
Thứ hai, đó là khái niệm về "hàng hóa", "hàng hoá tương tự" và "xuất xứ hàng hoá". Đối với thuật ngữ "hàng hóa", vấn đề cũng không kém phần phức tạp. Các Luật Thương mại 1997/2005, Luật Hải quan 2001/2005 và Luật Gía năm 2012 có định nghĩa "hàng hoá" khá khác nhau. Các hiệp định của WTO không có định nghĩa về khái niệm này, nhưng các hiệp định đó đều dựa vào quy định của Công ước của Tổ chức Hải quan thế giới về Hệ thống hài hoà về Mã số và Mô tả hàng hoá (Công ước HS) để xử lý vấn đề. Việt Nam là thành viên của Công ước này, Công ước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 01.01.2000. Theo quy định, tất cả những sản phẩm cụ thể nào được liệt kê, được mã hoá và mô tả trong Danh mục HS thì được gọi là hàng hoá chứ không chung chung và rất trừu tượng như đã được định nghĩa trong các Luật Thương mại, Luật Hải quan hoặc Luật Gía của chúng ta.
Việc xác định một “hàng hóa tương tự” không phải lúc nào cũng được tiến hành thuận lợi, do vậy đã có không ít trường hợp tranh chấp quốc tế phát sinh giữa các nước thành viên WTO quanh vấn đề này. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng và cụ thể về vấn đề này. Hơn nữa, thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Việt Nam về xác định một hàng hoá tương tự cũng chưa xảy ra. Do vậy, trong thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO, cần chú ý đến các quyết định của WTO về giải quyết tranh chấp loại này.
Vấn đề "xuất xứ hàng hoá"cũng khá phức tạp. Mất một thời gian dài ta mới có một văn bản của Chính phủ quy định về vấn đề  này, nhưng thực tiễn và kinh nghiệm xử lý vấn đề này của Việt Nam chưa nhiều.
Thứ ba, đó là khái niệm về "dịch vụ”, “thương mại dịch vụ ". Pháp luật Việt Nam, kể cả Luật Gía năm 2012 chưa có định nghĩa về dịch vụ theo cách hiểu chung của WTO, theo đó  mọi  hoạt  động  hoặc sản  phẩm được liệt kê vào, được  mã  hoá  và  mô tả  trong Bảng phân loại các sản phẩm dịch vụ cơ bản của Liên Hợp quốc (Danh mục CPC) đã đề cập đến trong GATS/WTO thì được gọi là dịch vụ. Sự chấp nhận việc phân loại dịch vụ theo Danh mục CPC cũng có thể dẫn đến hàng loạt vấn đề cần bàn trong lý luận về kinh tế ngành, lao động, quản lý nhân lực v.v... ở nước ta.
Pháp luật Việt Nam cũng chưa có định nghĩa về thương mại dịch vụ theo định nghĩa trong Hiệp định GATS/WTO mà các nước thành viên WTO phải tuân theo và cũng chưa điều chỉnh đầy đủ các vấn đề cung ứng dịch vụ theo các phương thức cung ứng dịch vụ theo GATS/WTO.
 Thứ tư, đó là khái niệm "không phân biệt đối xử". Không phân biệt đối xử là nguyên tắc cơ bản của WTO. Nguyên tắc này được cấu thành từ quy chế về "Đãi ngộ tối huệ quốc" (MFN) và quy chế đối xử quốc gia (NT). Trong thực tế, điều khoản MFN là điều khoản khá quan trọng. Theo quy định MFN, nếu Việt Nam ký kết một điều ước quốc tế thương mại song phương với các nước khác và nếu các bên liên quan không đạt được sự thoả thuận nào khác (bảo lưu MFN), thì các thành viên khác của WTO (sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO) sẽ được hưởng tại Việt Nam các nhượng bộ mà Việt Nam dành cho bên ký kết điều ước song phương đó.
Theo Danh mục các ngoại lệ về MFN đính kèm Biểu cam kết về dịch vụ, Việt Nam đã đạt được khá nhiều bảo lưu MFN trong các khoảng thời gian khác nhau, có loại 05 năm, có loại 10 năm và có loại thời hạn không được xác định.
Như vậy, các vấn đề khác có thể chịu sự tác động của quy chế MFN. Mặc dù trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đã có quy định về MFN, nhưng lại chưa định rõ nội hàm của khái niệm đó, cũng như chưa xác định rõ các trường hợp áp dụng MFN đối với các nước thứ ba khi họ yêu cầu được hưởng MFN.
Về NT có thể thấy pháp luật hiện hành của Việt Nam đã có quy định về NT trong một mức độ rất chung trong một văn bản Pháp lệnh công bố năm 2002. Trong khi đó Việt Nam chưa có văn bản nào giải thích về khái niệm đó, về nội hàm của nó, cũng như cơ chế vận hành, áp dụng NT.
Thứ năm, đó là khái niệm "các quy định có nội dung kinh tế " trong Hiệp định TRIPS/WTO. Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ và các văn bản dưới luật của Việt Nam không dùng khái niệm "các quy định có nội dung kinh tế ", chưa định rõ các quyền sở hữu trí tuệ nào là "quyền kinh tế", các quyền nào là "quyền tinh thần", mà chỉ mới quy định "quyền tài sản" và "quyền nhân thân". Hơn nữa, không phải lúc nào "quyền tài sản" cũng đồng nhất với quyền kinh tế hoặc đồng nhất với "các khía cạnh thương mại" của quyền sở hữu trí tuệ. Thực tiễn giải thích rõ vấn đề này đã phát sinh khi chúng ta hướng dẫn thi hành các quy định có liên quan của Hiệp định về bản quyền tác giả và Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này cho thấy việc thực thi các quy định nói trên của WTO không đơn giản nếu không có tư duy lập pháp đúng về các vấn đề nói trên.
Thứ sáu, đó là khái niệm về "Đầu tư". Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam đã có quy định khá rộng về vấn đề này nhưng chủ yếu điều chỉnh các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); việc đầu tư tài chính và đầu tư dưới hình thức cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ, các quyền đối với khoản nợ dưới các hình thức khác nhau, các quyền thế chấp, cầm cố, lưu giữ tài sản v.v... về cơ bản đã được quy định khá tổng quát trong Luật Đầu tư áp dụng cho mọi tổ chức, cá nhân nước ngoài dưới hình thức đầu tư gián tiếp, nhưng các quy định cụ thể về nó cần được tiếp tục nghiên cứu cụ thể hoá, kể cả vấn đề đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước, đầu tư của người có hai hoặc nhiều quốc tịch....
Thứ bảy, đó là khái niệm về doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam quy định khái niệm doanh nghiệp có giới hạn, không được mở rộng cho bất kỳ thực thể nào được thành lập hoặc tổ chức theo pháp luật áp dụng nhằm bất kỳ mục đích hoạt động nào. Trong khi đó WTO lại quan niệm doanh nghiệp dưới một gốc độ khá rộng. Vấn đề "Quốc tịch" của doanh nghiệp được giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam không hoàn toàn giống như cách giải quyết trong các cam kết của Việt Nam với WTO và với các nước.
          4.3.3. Yêu cầu về tăng cường nguồn nhân lực, đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nòng cốt về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế.
          a, Tổng quan yêu cầu về nguồn nhân lực trong điều kiện gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế.
          Chuẩn bị nguồn nhận lực cho hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 07/NQ-TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 05.02.2007 của Ban Chấp hành trung ương Đảng và Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ngày 27.02.2007 của Chính phủ nêu trên. Việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nòng cốt về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế đã được nhấn mạnh trong các Nghị quyết nói trên và các tài liệu, văn kiện khác của Đảng và Nhà nước.
           Tuy vậy, công việc này được tiến hành chậm, thậm chí còn ít được quan tâm đúng mức. Cạnh tranh quốc tế suy cho cùng là cạnh tranh về nguồn nhân tài. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy rõ điều này. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, đã có nhiều hơn các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam. Khả năng dịch chuyển nhân tài của Nhà nước sang khu vực tư nhân là khó tránh khỏi. Cải cách kinh tế ở đây không chỉ hướng đến việc bồi dưỡng, đào tạo lực lượng chuyên gia kinh tế, pháp lý, quản lý hành chính, cán bộ kề cận, mà còn phải tính đến cả lực lượng chuyên gia kinh tế, pháp luật, quản lý hành chính đang thực thi công vụ trên phạm vi toàn quốc. Nếu không xử lý đúng mối quan ngại đó thì khu vực nhà nước có thể sẽ thiếu hụt chuyên gia trong lĩnh vực này trong giai đoạn sau khi Việt Nam là Thành viên WTO.
         Mặt khác, WTO yêu cầu thực thi pháp luật phải thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ của nước Thành viên. Do đó, chất lượng công tác của cán bộ, công chức nhà nước phải đáp ứng các đòi hỏi nhất định theo yêu cầu của WTO, mọi hành vi của cán bộ, công chức nhà nước, đặc biệt là cán bộ, công chức cơ quan thực thi pháp luật, bảo vệ pháp luật được coi là hành vi của người đại diện của công quyền và Chính phủ trung ương phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các hành vi của các cán bộ, công chức đó, không kể họ đang thực thi công vụ tại các cơ quan Nhà nước ở trung ương hay tại các cơ quan Nhà nước ở địa phương.
          b,Tổng quan yêu cầu về tăng cường nguồn nhân lực , đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nòng cốt về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế và giải pháp xử lý vấn đề.
          Các ngành kinh tế đã góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị nguồn nhân lực, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trên phạm vi toàn quốc, góp phần thực hiện các nhiệm vụ do các ngành kinh tế đặt ra. Tuy vậy, gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra yêu cầu tăng cường nguồn nhân lực, đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nòng cốt về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế góp phần xử lý các vấn đề do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra. Qua nghiên cứu, chúng  ta có thể  nhận thấy, có nhiều vấn đề cần xử lý, nhưng ưu tiên xử lý các vấn đề sau:
        - Thứ nhất, đó là vấn đề nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ cán bộ giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng kiến thức kinh tế, pháp luật thương mại quốc tế của các ngành kinh tế, mà trước tiên là nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ cán bộ giảng dạy của các Trường Đại học. Do đội ngũ cán bộ giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng kiến thức kinh tế quốc tế, pháp luật thương mại quốc tế của nước ta là các "máy cái", nên các "máy cái" đó phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO. Có như vậy mới có thể tạo ra được các "máy con" vận hành tốt đồng đều tại các nơi khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam. Riêng đối với các cán bộ giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật thương mại quốc tế, các môn học liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và WTO của các ngành kinh tế, ngoài những yêu cầu chung, còn phải đáp ứng các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và WTO mà trước tiên là phải sử dụng được ngôn ngữ chính thức của WTO (nên định hướng là tiếng Anh) và khả năng tự sử dụng các phương tiện, thông tin trên mạng Internet toàn cầu. Cần triển khai việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và WTO của các ngành kinh tế bằng tiếng Anh cho những cán bộ, học viên được định hướng hoạt động đối ngoại hoặc tham gia vào các quan hệ quốc tế. Mạnh dạn chọn một số cán bộ trẻ, có năng lực chuyên môn tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tiếng Anh cơ bản gửi ra nước ngoài đào tạo, bồi dưỡng để bổ sung lực lượng cho các ngành kinh tế, pháp luật trong giải quyết các vụ việc theo pháp luật quốc tế hoặc vụ việc có yếu tố nước ngoài.
          - Thứ hai, đó là vấn đề nâng cao chất lượng chuyên môn của các công cụ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức kinh tế, pháp luật của các ngành kinh tế, mà trước tiên là hệ thống các giáo trình, giáo án, tài liệu tham khảo liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật thương mại quốc tế và WTO. Các giáo trình, giáo án, tài liệu tham khảo này phải được nâng cấp, cập nhật, phải được chuẩn xác hoá theo yêu cầu chung của tình hình nước ta, khu vực và cộng đồng thương mại quốc tế mà trước tiên là WTO. Việc hợp tác mạnh mẽ hơn với các chuyên gia của các nước trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau là cần thiết và cần có chương trình cụ thể để thu được kết quả như mong muốn.
         - Thứ ba, đó là vấn đề nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng của các cán bộ kinh tế, pháp luật, của mọi cá nhân tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, đây là yêu cầu cực kỳ quan trọng. Cần sớm có các quy định mẫu về đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức và cá nhân tham gia các loại hình hoạt động dịch vụ  thương mại. Cần có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động tác nghiệp liên quan đến  các loại hình hoạt động dịch vụ  thương mại của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và có biện pháp xử lý thoả đáng các vi phạm. Kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực này cần được nghiên cứu kỹ.
          4.3.4. Yêu cầu giảm thiểu và tránh những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại có thể phát sinh với các nước Thành viên khác.
          a,Tổng quan về những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại giữa các nước Thành viên WTO
         Những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại đã, đang và vẫn sẽ có thể phát sinh giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân của các nước Thành viên khác nhau của WTO. Trong 18 năm qua, WTO đã nhận được gần 500 đơn kiện giữa các nước Thành viên về các vấn đề khác nhau [20]. Đó là chưa kể đến các vụ tranh chấp phát sinh giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân của các nước Thành viên khác nhau của WTO nhưng không được đề lên thành tranh chấp giữa các nước Thành viên của WTO. Đối với Việt Nam ta, khi chưa là Thành viên của WTO thì đã có một số vụ tranh chấp thương mại đã phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân của các nước Thành viên của WTO với các tổ chức, cá nhân của Việt Nam ta về những vấn đề thuộc diện điều chỉnh của WTO. Khi trở thành Thành viên WTO thì khả năng phát sinh tranh chấp giữa Việt Nam với các Thành viên khác của WTO không vì thế mà tự nó giảm thiểu hoặc bị triệt tiêu. (Đến 30.4.2013, Việt Nam đã tham gia 02 vụ kiện với tư cách là nguyên đơn và 16 vụ kiện với tư cách là bên thứ ba). WTO có Cơ chế giải quyết tranh chấp khá phức tạp và không phải lúc nào ta cũng có đủ khả năng để thắng kiện. Do vậy, yêu cầu  giảm thiểu và tránh những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại có thể phát sinh giữa Việt Nam với các nước Thành viên khác của WTO là cấp thiết.
          b,Tổng quan về yêu cầu  giảm thiểu và tránh những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại có thể phát sinh giữa Việt Nam với các nước Thành viên khác và giải pháp xử lý vấn đề.
          Các yếu tố và cơ chế tạo khả năng thích ứng của Việt Nam sau khi được gia nhập WTO trước tiên phải là các yếu tố và cơ chế tạo ra khả năng cho các cơ quan Nhà nước Việt Nam các cấp nói chung và các ngành kinh tế Việt Nam nói riêng thích ứng với WTO và cơ chế thị trường hiện đại, giảm thiểu những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại có thể phát sinh giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam với các cơ quan, tổ chức, cá nhân các nước Thành viên khác.
            Theo kinh nghiệm quốc tế, trong điều kiện cụ thể của các nước có điều kiện và mức độ phát triển như Việt Nam ta, để giảm thiểu những xung đột kinh tế, tranh chấp thương mại có thể phát sinh giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam với các cơ quan, tổ chức, cá nhân các nước Thành viên khác thì việc đổi mới tư duy pháp lý, tư duy kinh tế, đổi mới quan niệm công vụ, công chức và phương pháp, tác phong, cách thức xử lý các vấn đề pháp lý-kinh tế-chính trị của các cơ quan Nhà nước là hết sức quan trọng, cần chú ý trước tiên. Mục đích cốt lõi ở đây là đẩy mạnh cải cách kinh tế, cải cách pháp luật, cải cách hành chính tư pháp, cải thiện tính hiệu quả, minh bạch, công khai của việc thực thi chức năng công quyền, của hoạt động quản trị kinh doanh. Chính vì vậy mà người ta thường nói thách thức của các nước mới gia nhập WTO chính là thách thức trong đổi mới tư duy pháp lý, kinh tế, thách thức trong cải cách kinh tế, pháp lý, tư pháp, hành chính. Thực hiện thành công với bên ngoài các quyền và nghĩa vụ Thành viên WTO cũng có nghĩa là thực hiện thành công cải cách kinh tế, cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính trong nước. Để thực hiện thành công trong nước, ngoài những việc cần thiết phải tiến hành theo các định hướng đã có, các ngành kinh tế có thể ưu tiên cải cách, điều chỉnh trên ba phương diện: Thứ nhất là cải cách chế độ phê duyệt các chương trình, dự án, cấp phép. Ở đây cần lưu ý tới việc xây dựng các tiêu chí khoa học, minh bạch, công khai. Thứ hai là thiết lập các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp trung gian đủ mạnh để hỗ trợ cho các hoạt động liên quan đến dân sự, kinh tế, thương mại quốc tế như các hiệp hội, tổ chức ngành hàng, ngành nghề, văn phòng, tổ chức luật sư, trung tâm tư vấn dịch vụ pháp luật, ngân hàng cơ sở dữ liệu pháp luật..., phải có bảo đảm pháp lý cho các tổ chức này không bị lệ thuộc vào các cơ quan nhà nước và có được mối quan hệ bổ trợ tư pháp thường xuyên với các cơ quan tư pháp, toà án... Thứ ba là thúc đẩy xây dựng nền hành chính nhà nước điện tử để cải thiện tính hiệu quả, minh bạch, công khai của các thủ tục hành chính, pháp luật liên quan đến hoạt động của các ngành kinh tế.
            Tóm lại, WTO là một sân chơi khá phức tạp với những luật lệ rất nghiêm khắc. Trở thành Thành viên WTO là một sự kiện vô cùng quan trọng trong công cuộc phát triển của Việt Nam. Gia nhập WTO không chỉ tạo ra cho Việt Nam nhiều thách thức mà còn đưa đến cho Việt Nam nhiều cơ hội. Các ngành kinh tế Việt Nam đã vượt qua nhiều thử thách và đang vững bước đi lên. Chắc chắn các ngành kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục vượt qua được các thử thách đó để thu hẹp dần khoảng cách với các ngành kinh tế của các nước trên thế giới.
                                                                        Hà nội, ngày 30.04.2013
  PGS.TS. Hoàng Phước Hiệp [1]


[1] Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp; Nguyên thành viên Đoàn đàm phán của Chính phủ về các vấn đề kinh tế, thương mại quốc tế
[2]   Xem: http:// www.nhandan.com.vn > Gia nhập WTO> Nguyễn Tấn Dũng, " Gia nhập WTO: Cơ hội, thách thức và hành động của chúng ta" ngày 07.11.2006
[3]   Xem: http:// moj.gov.vn > Chuyên mục Gia nhập WTO > Văn kiện Việt Nam gia nhập WTO
[4]   Xem: http:// www. wto> accessions >vietnam ngày 12.12.2006
    [5]   Xem: Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H.2000, Tập 4, tr.470;
   [6]    Xem  Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H. 1995, Tập5 tr.19,
[7]   Xem:Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Khoá X,nxb CTQG,H.2007, tr.39-69.
[8] Xem Công báo nước CHXHCN Việt Nam số 238+239 ngày 10.3.2007, tr. 11713-11752.
[9] . Xem  http:// www.wto.org.> the wto ;  xem thêm: WTO,  “Introduction to the WTO”, Geneva 1998; WTO,“Understanding the WTO”, Geneva 2006; 
[10] . Xem  http:// www.wto.org.> the wto ;  xem thêm: WTO,  “Introduction to the WTO”, Geneva 1998; W¦TO,“Understanding the WTO”, Geneva 2011; Ngân hàng thế giới: "Phát triển, Thương mại và WTO", nxb CTQG, Hà nội 2004; Đại học quốc gia Hà nội và Viện KAS: “Việt Nam và tiến trình gia nhập WTO”, H..2005; TS. Hoàng Phước Hiệp, Với WTO-Lịch sử mở trang dành cho Việt Nam. nxb Lao động, H.2006; PGS.TS. Hoàng Phước Hiệp,  Việt Nan hội nhập với WTO và các luật chơi trong thương mại toàn cầu; Nxb Tư pháp, năm 2007; PGS.TS. Hoàng Phước Hiệp, Luật lệ thuơng mại hàng hóa quốc tế với các cam kết của Việt Nam với WTO; Nxb Tư pháp’ Nxb Tư pháp năm 2008.


9.  Nguyên tắc này còn có tên gọi là “có thể dự báo được các rủi ro thương mại”.
[12]  Xem  http:// www.wto.org.> About  wto ; WTO,“Understanding the WTO”,Geneva 2011; p.101-108
[13] Xem thêm: WT/ACC/VNM/48 ngày 27.10.2006, Báo cáo của Ban công tác về việc ViệtNam gia nhập WTO, trong "WTO-Các văn kiện gia nhập Tổ chức thương mại thế giới(WTO) của Việt Nam, nxb CTQG, H. 2006, tr.25-222.
[14] Xem thêm: WT/ACC/VNM/48/Add.1 ngày 27.10.2006, Biểu CLX, Phần I- Danh mục các nhượng bộ và cam kết về hàng hoá, trong "WTO-Các văn kiện gia nhập Tổ chức thương mại thế giới(WTO) của Việt Nam, nxb CTQG, H. 2006, tr.227-806.

[15] Xem thêm: WT/ACC/VNM/48/Add.2 ngày 27.10.2006, Biểu CLX, Phần I I- Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ; Danh mục miễn trừ MFN theo Điều II, trong "WTO-Các văn kiện gia nhập Tổ chức thương mại thế giới(WTO) của Việt Nam, nxb CTQG, H. 2006, tr.807-862.

[16]  Xem:Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Khoá X,NXB CTQG,H.2007, tr.39-42.Xem thêm: http:// www.nhandan.com.vn > Gia nhập WTO> Nguyễn Tấn Dũng, " Gia nhập WTO: Cơ hội, thách thức và hành động của chúng ta" ngày 07.11.2006


[17]  Xem:Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Khoá X,NXB CTQG,H.2007, tr.42-69.Xem thêm: http:// www.nhandan.com.vn > Gia nhập WTO> Nguyễn Tấn Dũng, " Gia nhập WTO: Cơ hội, thách thức và hành động của chúng ta" ngày 07.11.2006


[18]  Xem:PGS.TS. Hoàng Phước Hiệp (Chủ biên), “Nghiên cứu, rà soát và hoàn thiện pháp luật Việt Nam phục vụ gia nhập WTO”., nxb Tư pháp, H. 2007, tr. 174-251.

[19]  Xem: TS. Hoàng Phước Hiệp (Chủ biên), " Báo cáo tổng thuật kết quả rà soát, so sánh giai đoạn II (từ tháng 12.2001 đến tháng 4.2005) các văn bản pháp luật Việt Nam với yêu cầu của BTA và các quy định của WTO". nxb Tư pháp, Hà nội 2006, tr. 38 và các trang khác. Xem thêm, PGS.TS. Hoàng Phước Hiệp (Chủ biên), Nghiên cứu, rà soát và hoàn thiện pháp luật Việt Nam phục vụ gia nhập WTO. nxb Tư pháp, H. 2007
[20]  Xem: http:// www. wto> dispute settlement> the disputes ngày 30.4.2013