Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong kiến trúc của di sản văn hóa Mỹ Sơn
Năm 1885, một học giả người Pháp tên là M.C Paris
đã phát hiện ra khu đền tháp Mỹ Sơn với đường kính khoảng 2km nằm kín đáo trong một thung lũng
hẹp, giữa những khu rừng rậm rạp (nay thuộc địa phận xã Duy Phú, huyện
Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 70 km về hướng tây
nam, cách thành phố Hội An khoảng 40km). Năm 1898-1899, hai học giả Pháp là L.Finot và L.De Lajonquiere đã
đến Mỹ Sơn để nghiên cứu các văn bia, họ đã thống kê được khoảng 32 bi ký
(chiếm hơn 1/5 trong tổng số các bi ký của Vương Quốc Chămpa đã được phát
hiện), trong đó có 16 bia ký cho biết tương đối chính xác niên đại của một số
di tích. Kể từ đó, hàng loạt những công trình nghiên cứu của các học giả trong
và ngoài nước về bia ký,
kiến trúc và điêu khắc ở Mỹ Sơn
đã ra đời, qua đó vén lên bức màn bí mật về Mỹ Sơn.
Khu đền tháp ở Mỹ Sơn được xây dựng kéo dài hàng
thiên niên kỷ bắt đầu từ thế kỷ IV bởi vua Bhadravarman (trị vì từ năm 349 đến
năm 361) và kết thúc vào cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Jaya
Simhavarman III (Sau đó thì các công trình đền tháp không được tiếp tục xây
dựng ở Mỹ Sơn nữa mà chuyển xuống các khu vực phía nam). Đây là một quần thể
với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều
phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu cho từng giai đoạn lịch sử của vương
quốc Chămpa. Qua các khảo sát thực tế, hiện nay chỉ còn khoảng
hơn 20 đền tháp còn giữ được hình dạng.
Vốn
là một quốc gia nằm ven biển, tiết diện lãnh thổ hẹp ngang, Chămpa có một nền
văn hóa mang tính hướng ngoại. Điều này được phản ánh khá rõ nét trong kiến
trúc của khu đền tháp Mỹ Sơn. Các đền tháp nơi đây cho thấy sự giao thoa của
nhiều thành phần văn hóa khác nhau như văn hóa của người Indonesia, người Việt,
người Khmer, người Ấn Độ… Trong đó, yếu tố văn hóa Ấn Độ là có tác động mạnh mẽ
nhất.
Khu
đền tháp là một quần thể công trình mang tính chất tôn giáo, cụ thể là Ấn Độ
giáo. Mỹ Sơn là thánh
địa Ấn độ giáo quan trọng nhất của Vương quốc Chămpa. Các công trình được xây dựng lên không phục vụ cho
đa số dân chúng mà chỉ dành cho tầng lớp giáo sĩ, quý tộc cao cấp. Khu đền tháp
là nơi mà các giáo sĩ, quý tộc tế thờ, giao tiếp với các đấng thần linh. Nơi
được chọn xây dựng các đền tháp là trong một thung lũng với điều kiện thời tiết
khắc nghiệt và cách ly với cuộc sống dân dã. Theo nội dung một tấm bia có niên đại khá sớm ở Mỹ Sơn
cho biết, vào khoảng cuối thế kỷ IV, một ngôi đền bằng gỗ đã được xây dựng để
thờ thần Siva-Bhadresvara, trong đó có đoạn: "Bhadravarman dâng cho thần
một vùng đất vĩnh viễn; phía đông là núi Sulaha, phía nam là đại Sơn
Mahaparvata, phía tây là núi Kucaka, phía bắc là... (làm giới hạn). Ruộng đất
trong phạm vi đó thì dâng với cả dân cư. Hoa lợi của khu đất này thì phải dâng lên
thần...”.
Cũng
giống như các đền tháp Chămpa khác, đền tháp ở Mỹ Sơn mang đặc điểm là một cụm
kiến trúc, được xây dựng
theo khái niệm vũ trụ luận của Ấn Độ, bao gồm:
-
Đền thờ chính (tiếng Chăm là Kalan) nằm ở vị trí trung tâm, thông thường có một
cửa ra vào ở hướng đông, nơi thờ vị thần chính (Siva), tượng trưng cho ngọn núi
Mêru, nơi ngự trị của thần linh;
-
Tháp cổng (Gopura) nằm ngay phía trước đền thờ chính, có hai cửa thông nhau ở
hướng Đông và hướng Tây;
-
Mandapa là ngôi nhà dài tiếp theo tháp cổng, thường được sử dụng để làm nơi đón
tiếp khách hành hương, tiếp nhận lễ vật;
-
Cạnh đền thờ chính là ngôi tháp Kosagraha, có một hoặc hai phòng cửa ra vào ở
hướng Bắc, thường được sử dụng để làm nơi cất giữ các đồ tế lễ;
-
Ngoài ra, quanh đền thờ chính còn có những tháp phụ, để thờ các vị thần phương
hướng (Dikpalaka), các vị thần tinh tú (Grahas), hoặc các vị thần phụ, như
Skanda, Ganesa,...
Các
tháp mang đặc điểm chung là xây bằng gạch, có bốn mặt hình vuông đối xứng nhau.
Mặt trước hướng về phía đông, hướng mặt trời mọc, có cửa ra vào còn ba mặt còn
lại ở ba hướng (tây, nam, bắc) có ba cửa giả. Các tháp thường có ba tầng được
cấu trúc như nhau, mỗi tầng càng lên cao càng thu nhỏ dần, tạo hình búp sen tỏ
lòng thành kính thần linh và hoài niệm tổ tiên. Không gian bên trong tháp chật
hẹp, tường mỏng ở đáy nhưng càng lên cao càng dày (trên đỉnh tháp có thể dày
tới gần 3m).
Căn cứ
vào vị trí phân bố của các tháp, một học giả Pháp là H. Parmentier đã đặt tên cho các tháp theo mẫu tự
Latin:
- Nhóm A: gồm 13 đền tháp (từ A1 đến A13) nằm
ở phía Đông - Nam thung lũng Mỹ Sơn;
Ngôi đền
chính (Kalan) A1 (hiện không còn do bị bom Mỹ đánh sập năm 1969) được các nhà
nghiên cứu đánh giá là kiệt tác của nghệ thuật kiến trúc Chămpa, cũng là công
trình cho thấy rõ ràng về ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Theo bản vẽ và khảo tả
của H.Parmentier, tháp A1 cao 24 m, mỗi cạnh 10m, có hai cửa ra vào hướng
đông và tây, thân tháp cao vút, thon thả. Mỗi mặt tường có năm trụ ốp, các trụ
ốp tường có một đường rãnh
sâu ở giữa chạy suốt từ chân đến đỉnh trụ, các trụ gạch này được chạm các dải
hoa văn cành lá cách điệu, bố trí thành những hình chữ S nối tiếp nhau. Trên
các mặt tường giữa các trụ ốp cũng được chạm những tràng cành lá
uốn cong. Trên hai mặt tường phía nam và phía bắc có các cửa giả nhô ra, được
tạo nên bởi hai trụ hình chữ nhật đỡ lấy một vòm cuốn cong
và nhọn ở trên đỉnh, bên trong ô cửa giả có hình một người đứng chắp
tay được chạm thẳng vào tường gạch. Mái tháp gồm ba tầng thu nhỏ dần lên trên, tầng trên được
mô phỏng theo tầng dưới, ở bốn góc của mái trang trí những hình tháp thu nhỏ. Trên đỉnh là một
chóp tháp bằng sa thạch. Chân tháp được trang trí những đường gờ kỷ hà dạng
những tầng sen cách điệu, kết hợp với những hình người, voi,
Garuda... chạm trên gạch rất sống động. Sự kết hợp giữa khối kiến trúc đồ sộ
nhưng dáng vẻ nhẹ nhàng thanh thoát với nghệ thuật điêu khắc tinh tế trên gạch
và đá, những tràng cành lá mềm mại, những hình người và động vật... đã hình thành nên một phong cách nổi
tiếng của nghệ thuật Chămpa vào thế kỷ X - phong cách Mỹ Sơn A1.
Quanh đền thờ A1 có 6 tháp nhỏ, ký hiệu từ A2 đến A7, thờ các vị thần Phương hướng (Dikpalaka) :
Quanh đền thờ A1 có 6 tháp nhỏ, ký hiệu từ A2 đến A7, thờ các vị thần Phương hướng (Dikpalaka) :
+) Tháp
A2 : hướng tây-nam, thờ thần Brahma - Đấng sáng tạo thế gian.
+) Tháp A3 : hướng nam, thờ Diêm Vương Yama.
+) Tháp A3 : hướng nam, thờ Diêm Vương Yama.
+) Tháp
A4 : hướng đông-nam, thờ thần lửa Agni.
+) Tháp
A5 : hướng đông-bắc, thờ thần Isana (một tên khác của thần Siva).
+) Tháp
A6 : hướng bắc, thờ thần Tài lộc Kuvera.
+) Tháp A7
: hướng tây-bắc, thờ thần Gió Vayu.
+) Tháp
A8 : là tháp cổng (Gopura) của đền thờ A1.
+) Tháp
A9 : ngôi nhà dài để đón khách hành hương (Mandapa).
+) Tháp
A10 : nằm ở phía bắc tháp A1, là một ngôi đền khá lớn, cũng đã bị sập trong
chiến tranh, hoa văn trang trí trên tường tháp là những cành lá cách
điệu xoắn xít dạng vết sâu bò.
+) Các
tháp từ A11 đến A13 là các tháp phụ, làm dùng nơi cất giữ đồ tế
lễ hoặc thờ
các vị thần khác.
- Nhóm A': gồm 4 tháp, nằm ở phía Nam của nhóm
A. Đây là những đền thờ nhỏ, tất cả các tháp đều có cửa ra vào ở hướng Tây,
quay về phía khu trung tâm;
- Nhóm B: gồm 14 tháp.
+) Tháp B1 : là
ngôi đền chính của nhóm B, hiện nay chỉ còn lại phần chân tháp bằng sa thạch,
gồm nhiều tảng đá vuông vức ghép lại với nhau.
+) B2 là
tháp cổng của đền thờ B1.
+) B3 là
đền thờ thần Ganesa - thần Hạnh phúc. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là hình ảnh của tháp A1
thu nhỏ.
+) Tháp
B4 thờ thần Skanda - vị thần chiến tranh, con trai cả của thần Siva.
+) Tháp
B5 (có niên đại khoảng
thế kỷ X), là nơi cất giữ đồ cúng tế của nhóm tháp B,
mặc dù là công trình
phụ, nhưng đây là tháp đẹp nhất trong nhóm B. Tháp có mặt bằng hình chữ nhật, kéo dài theo trục
đông-tây; cửa ra vào ở hướng bắc, nằm ở phần nửa mặt từng ở phía
tây. Trên tường tháp chạm những dải hoa văn hình cành lá cuộn tròn liên hoàn, trong những ô cửa giả
có hình người đứng chắp tay được chạm trên tường gạch, đầu tượng
được làm bằng sa thạch. Trên mặt tường phía đông và tây, mỗi bên trổ một ô cửa
sổ, song cửa sổ là ba trụ đá
hình con tiện, phía trên
cửa sổ có vòm cuốn, bên trong mỗi vòm cuốn chạm hình hai con voi đứng đấu vòi dưới một
tán cây. Mái tháp là một tầng thu nhỏ mô phỏng phần thân tháp, đỉnh tháp cong hình thuyền (hoặc hình yên ngựa), được
xếp bằng gạch.
+) Tháp
B6 nằm đối diện tháp B5, cửa ra vào ở hướng nam. Trong tháp có một bồn
nước cạn hình ô-van,
được làm bằng sa thạch. Trên vòm cửa ra vào có hình thần Vishnu ngồi trên lưng rắn
thần Naga, rắn có 13 đầu vươn lên che phía trên thần Vishnu.
+) Các
tháp nhỏ chung quanh từ B7 đến B13 là tháp thờ các vị thần Tinh tú (Grahas),
gồm có thần Mặt trời Surya, thần Mặt trăng Sandra, thần Sao Hỏa Agni, thần Sao
Thuỷ Varuna, thần Sao Mộc Indra, thần Sao Kim Isana và thần Sao Thổ Yama. Chúng
cũng tượng trưng có 7 ngày trong tuần theo lịch Saka của vùng Nam Ấn Độ.
- Nhóm C: gồm 7 tháp, nằm ở hướng Bắc
nhóm B.
+) Tháp
C1 là đền thờ chính của nhóm C, có tiền sảnh khá dài, mái tháp và mái tiền sảnh
đều cong hình thuyền chứ không phải là mái nhọn nhiều tầng như các
Kalan khác. Trên hai mặt tường phía nam và bắc có các trụ ốp tường và các ô cửa
giả, trong các ô cửa giả là những hình người đứng chắp tay được tạc vào tường
gạch. Bên trong tháp thờ một bộ Linga - Yoni nhỏ. Tại đây trước kia người ta
cũng tìm được một pho
tượng thần Siva đứng, phản ánh một kiểu thờ cúng khá đặc biệt tại Thánh địa Mỹ
Sơn: vừa thờ tượng chân dung của một vị vua Champa dưới hình ảnh thần Siva, vừa
thờ Linga của thần.
+) Tháp C2
là tháp cổng của đền thờ C1.
+) Tháp
C3 được dùng làm nơi cất giữ đồ cúng tế, cửa ra vào ở hướng bắc.
+) Các
tháp C4, C5, C6 là những tháp phụ xếp thành một hàng theo trục đông - tây.
+) Tháp
C7 là một trong các tháp có niên đại sớm nhất còn tồn tại ở Mỹ Sơn. Ngôi
tháp này thuộc dạng tháp lùn, trong tháp có một bệ thờ Linga-Yoni nhỏ.
- Nhóm D: gồm 6 tháp, nằm ở phía Đông nhóm B và C. Trong nhóm này, riêng hai tháp D1 và D2 không được làm theo kiểu truyền thống của kiến trúc Chămpa, mà có mặt bằng hình chữ nhật, cửa ra vào ở hai đầu hồi nhà hướng Đông và hướng Tây.
- Nhóm D: gồm 6 tháp, nằm ở phía Đông nhóm B và C. Trong nhóm này, riêng hai tháp D1 và D2 không được làm theo kiểu truyền thống của kiến trúc Chămpa, mà có mặt bằng hình chữ nhật, cửa ra vào ở hai đầu hồi nhà hướng Đông và hướng Tây.
- Nhóm E: gồm 9 tháp, nằm ở phía Bắc nhóm
A và nhóm G, bao gồm:
+ Đền thờ
E1: có cửa ra vào ở
hướng Tây, mặt bằng đền (tháp) hình vuông, 4 góc có 4 trụ đá, được điêu khắc
khá đẹp. Trên mi cửa có một bức phù điêu bằng sa thạch, thể hiện cảnh “Đản sinh
Brahma”. Bên trong ngôi đền E1 có một đài thờ lớn, được làm bằng những khối sa
thạch ghép lại với nhau, chạm trổ rất tinh tế, thể hiện những cảnh múa lụa,
đánh đàn, thổi sáo, những cảnh sinh hoạt của các tu sĩ Bà-la-môn, như luyện
thuốc chữa bệnh...
+ Tháp E2: là tháp cổng của đền thờ E1.
+ Tháp E3: là nơi chuẩn bị đồ tế lễ.
+ Tháp E4: là tháp phụ, nằm cạnh tháp E1 về phía Bắc.
+ Tháp E5 và E6: là hai tháp phụ, xếp thành một hàng dọc, ở
phía Nam tháp E1. Năm 1903, tại tháp E5, đã phát hiện một pho tượng
thần Ganesa đứng, có 4 tay, niên đại khoảng cuối thế kỷ VII - đầu thế kỷ VIII.
Đây là một tác phẩm rất hiếm trong nền nghệ thuật Ấn Độ giáo .
+ Tháp E7: là nơi cất giữ đồ tế lễ của nhóm E. Mái tháp
cong hình thuyền, kéo dài theo trục Đông - Tây, cửa ra vào ở hướng Bắc.
+ Tháp E8
và E9: là hai tháp
nhỏ, ở góc Đông Bắc, phía sau tháp E4, hiện chỉ còn một vài dấu tích nền móng.
- Nhóm F: gồm có ba công
trình kiến trúc, nằm ở phía bắc nhóm E. Đây là một tổng thể tháp đơn giản, với
tháp chính F1, tháp cổng F2 và một tháp phụ nhỏ F3 nằm ở phía nam tháp F1. Đền
thờ F1 có cửa ra vào ở hướng tây, trụ ốp tường dạng tròn, không trang trí hoa văn. Chân
tháp có nhiều đường gờ chồng lên nhau, trang trí bằng những họa tiết cánh sen,
hình vuông và hình tam giác. Trên đầu cột của những cửa giả có hình mặt Kala.
- Nhóm G: gồm 5 tháp, nằm trên một ngọn đồi thấp - giữa
nhóm A và nhóm E. Hiện nay, chỉ còn lại đền thờ G1, với cửa chính mở về hướng
Tây. Trên các cửa ra vào và cửa giả có các vòm cuốn hình mũi giáo, trang trí
phù điêu nữ thần Laksmi. Thân tháp trang trí những mặt Kala. Góc tháp có tượng
sư tử bằng sa thạch.
- Nhóm H: gồm
4 tháp, nằm trên một ngọn đồi thấp phía Tây - Bắc nhóm B, C, D. Đặc biệt, tại
khu vực này đã phát hiện một bức phù điêu lớn, hình thần Shiva.
- Nhóm K: nằm cách xa
nhóm E, F về phía bắc, bị hư hại khá nặng, tháp có vòm cửa hình mũi giáo đặt trên hai trụ
gạch không trang trí hoa văn, trên vòm cửa giả có gắn một bức phù điêu bằng sa
thạch chạm hình thần Brahma có 2 tay và 3 đầu (theo thần thoại, thần Brahma có
4 đầu, nhưng chiếc đầu thứ 4 không thể hiện trên phù điêu được).
- Các
nhóm tháp L, M, N nằm riêng lẻ, cách xa khu trung tâm, tất cả đã bị sụp đổ từ
lâu.
Như vậy,
qua những công trình kiến trúc còn tồn tại ở di tích văn hóa Mỹ Sơn, chúng ta
có thể thấy những biểu hiện của sự giao lưu giữa các nền văn hóa, đặc biệt là
sự kết tinh rực rỡ của các yếu tố văn hóa của nền văn minh Ấn Độ trên mảnh đất
thánh địa này. Tuy nhiên, những người Champa không tiếp thu, sao chép một cách
nguyên vẹn mà luôn cải biên sáng tạo trên cơ sở văn hoá bản địa. Người Chăm một
thời tôn thờ, đề cao Siva Ấn Độ nhưng Siva của người Chăm không giống Siva Ấn
Độ, Siva Chăm vẫn hướng về nữ tính, gần gũi với tín ngưỡng thờ mẫu của người
Chăm và luôn kết hợp với Linga – Yoni (tín ngưỡng phồn thực). Về sau tục thờ
Siva được gắn với tục thờ Vua - Thần (Mukhalinga). Điều đó thể hiện được tính
bản địa - một cá tính riêng trong tục thờ thần của người Chăm. Cũng như các mẫu
đề điêu khắc, kiến trúc Chăm luôn dựa vào môtíp của Ấn giáo để rồi biến hoá
thành cái riêng mình. Chẳng hạn tháp Chăm hầu như xây bằng gạch, chứ không xây
bằng đá như tháp Ấn Độ. Các tháp Chăm hướng về hình khối đơn giản, không qui mô
bề thế như các tháp vốn cũng chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo như ở Ấn Độ, đền
tháp Ăngko (Campuchia), tháp Borobudur (Indonesia). Tháp Chăm luôn hướng về sự
cân xứng, đẹp mắt, vừa độc đáo vừa có cá tính, kĩ thuật, bí quyết riêng mà đến
nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Đó là thành tựu, là nét bản sắc riêng biệt, cho
thấy sự tiếp biến văn hóa tài tình, sức sáng tạo, tài ba độc đáo của những nhà
kiến trúc, điêu khắc Chăm xưa.